“Ra sức phấn đấu, thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII”:
"Kính thưa
Trung ương,
Thưa
các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 6 ngày làm việc
khẩn trương, nghiêm túc và với tinh thần trách nhiệm cao, Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương
trình đề ra. Các đồng chí Ủy viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã
tập trung công sức, trí tuệ, nghiên cứu tài liệu, tổng kết thực tiễn, phát huy
dân chủ, thảo luận thẳng thắn, sôi nổi, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sâu
sắc vào các tờ trình, báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải
trình có sức thuyết phục những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã nhất trí cao thông qua các Nghị quyết và Kết luận của Hội
nghị. Để kết thúc Hội nghị, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị, phát biểu, nhấn mạnh
và làm rõ thêm một số vấn đề và khái quát lại những kết quả quan trọng chủ yếu
mà Hội nghị của chúng ta lần này đã đạt được.
1.
Về vấn đề quản lý và sử dụng đất đai
Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng và kết quả tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 6 khóa XI, dành nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận và đã thống
nhất cao ban hành Nghị quyết mới về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế,
chính sách; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất; tạo động lực
đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao". Trung ương cho
rằng, cần phải kế thừa, bổ sung, phát triển Nghị quyết Trung ương 6 theo hướng
tiếp tục khẳng định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích
quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án
phát triển kinh tế - xã hội theo luật định, bảo đảm công bằng, công khai, minh
bạch. Quản lý và sử dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân
được tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng đất một cách công bằng, hiệu quả và bền
vững. Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia, cả về diện
tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi
trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, đồng
thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với các địa phương.
Quyền sử dụng đất
là quyền sử dụng một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhưng không phải là
quyền sở hữu; quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo
hộ. Người sử dụng đất có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nhà
nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho các tổ chức, cá
nhân khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai;
không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá
nhân; có chính sách để đất nông nghiệp được sử dụng một cách có hiệu quả cao
nhất. Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp
với thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó
có chính sách phù hợp đối với đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm
năng, phát huy cao nhất nguồn lực tài nguyên đất đai; kiên quyết khắc phục tình
trạng đầu cơ đất, sử dụng đất không đúng mục đích, lãng phí, tham nhũng, tiêu
cực, gây khiếu kiện, bức xúc trong nhân dân.
Nâng cao hơn nữa
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về đất đai. Hiện đại hóa công tác quản
lý đất đai và dịch vụ công về đất đai. Củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý đất đai một cách tập trung, đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai trò
và năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Đất đai phải được điều tra,
đánh giá, thống kê, kiểm kê, lượng hóa, hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế;
được quy hoạch sử dụng hợp lý, với tầm nhìn dài hạn, hài hòa lợi ích giữa các
thế hệ, các vùng, miền; giữa Trung ương và địa phương; giữa phát triển kinh tế
- xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường và thích ứng với
biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giải quyết tốt những bất
cập, vướng mắc trong việc quản lý và sử dụng đất do lịch sử để lại và từ yêu
cầu mới đặt ra của thực tiễn.
Trên cơ sở thống
nhất về nhận thức, quán triệt đầy đủ, sâu sắc những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
nêu trên, Hội nghị Trung ương lần này đã đi sâu phân tích, đánh giá và thống
nhất cao về các giải pháp, chủ trương, định hướng tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
và tổ chức thực hiện tốt hơn nữa luật pháp, chính sách về đất đai, trước hết là
sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 và các luật pháp có liên quan để khắc
phục những hạn chế, yếu kém tồn tại kéo dài lâu nay, đặc biệt là những hạn chế,
yếu kém liên quan đến công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho
thuê đất; hỗ trợ, bồi thường, tái định cư, thu hồi đất; chính sách tài chính
đất đai và xác định giá đất; chế độ quản lý và sử dụng đất nông nghiệp; đất có
nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc doanh, đất dành cho việc thờ tự, tôn giáo,
nghĩa trang, nghĩa địa; quản lý nhà nước về đất đai...
Trung ương còn nhấn
mạnh, trong quá trình tổ chức thực hiện, cần thường xuyên tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò giám sát của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân để tạo sự đồng thuận, đưa
chính sách, pháp luật về đất đai thực sự đi vào cuộc sống.
2.
Về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã thảo luận sôi nổi và cho nhiều ý kiến tâm huyết, trách nhiệm để
hoàn thiện "Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn". Trung ương nhận thấy:
Sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết, với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống
chính trị, sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện, nhất là trong việc cơ cấu lại nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ngày càng được củng
cố, nâng cao.
Nông nghiệp đang
tiếp tục được phát triển cả về quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng trưởng
ở mức khá cao và tiếp tục khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng, là trụ
đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất,
kinh doanh nông nghiệp đang chuyển mạnh theo hướng nâng cao chất lượng và giá trị
gia tăng, từng bước thích ứng với biến đổi khí hậu; phát huy lợi thế vùng,
miền, địa phương; chú trọng ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi. Hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh ngày càng được hoàn
thiện, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Tỉ lệ nông sản qua
chế biến tăng dần; thị trường tiêu thụ được mở rộng cả trong và ngoài nước;
xuất khẩu tăng nhanh cả về sản lượng, giá trị và tỉ trọng sản phẩm chất lượng
cao. Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế
giới.
Nông dân nước ta đã
phát huy tốt hơn vai trò là chủ thể, tích cực trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất,
ứng dụng khoa học - công nghệ, tham gia hợp tác, liên kết, khôi phục và phát
triển ngành nghề nông thôn; xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn. Thu nhập
của nông dân ngày càng tăng, đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được
cải thiện; tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm nhanh; dân chủ cơ sở ngày càng được
phát huy.
Nông thôn đang có
nhiều thay đổi rõ rệt, khá toàn diện, thể hiện rõ vai trò là địa bàn chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cơ cấu kinh tế của khu vực nông
thôn chuyển đổi tích cực; tỉ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ tăng khá.
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào
sâu rộng, có sức lan tỏa mạnh mẽ, nhận được sự tham gia tích cực của cả hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp,
đã về đích sớm hơn 1,5 năm so với mục tiêu đề ra.
Để tiếp tục phát
huy những kết quả, thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém còn
tồn tại, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, thực hiện thành công những mục
tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, chúng ta phải nhận
thức thật đầy đủ và đúng đắn hơn nữa về vị trí, vai trò có ý nghĩa chiến lược
lâu dài của phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; coi đây là cơ sở và lực lượng đặc biệt quan
trọng để phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và
sức mạnh con người Việt Nam. Công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước. Nhà nước cần phải tiếp tục ưu tiên nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Phát triển hài hòa giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng,
miền; gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp; giữa phát
triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hóa theo hướng "nông nghiệp
sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh".
Khẳng định Nông dân
là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp. Chú trọng nâng
cao trình độ, năng lực làm chủ của nông dân theo hướng phát triển toàn diện,
văn minh; phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi
mới sáng tạo; ý chí vươn lên, khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh,
hạnh phúc; có trình độ tổ chức sản xuất tiên tiến, nếp sống văn minh, trách
nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; được thụ hưởng những
thành quả phát triển kinh tế - xã hội và tiếp cận các dịch vụ, tiệm cận với đô
thị. Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải hướng tới nâng cao toàn diện đời
sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân nông thôn; lấy lợi ích của
người dân là mục tiêu cao nhất.
Phải nhận thức và
xác định rõ, nông nghiệp là một lợi thế của quốc gia, là trụ đỡ của nền kinh
tế. Phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm, tích hợp
đa giá trị theo hướng giữ vững an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường
sinh thái; khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn. Phát
huy lợi thế vùng, miền; tổ chức sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá
trị, dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; giảm phát thải
khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chuyển mạnh từ sản xuất nông
nghiệp nhỏ lẻ sang phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với nhu cầu thị trường,
nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh; phát triển cả thị trường trong
nước và thị trường xuất khẩu.
Xây dựng nông thôn
hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội đồng bộ, kết nối với đô thị; có đời sống văn hóa lành mạnh, phong phú,
đậm đà bản sắc dân tộc; có môi trường xanh, sạch, đẹp; an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội được bảo đảm. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần chú
trọng phát triển hài hòa, đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, gắn với
cơ cấu lại lao động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông
dân và người dân nông thôn. Xây dựng nông thôn mới ngày càng đi vào chiều sâu,
thực chất, hiệu quả và bền vững. Quản lý, sử dụng một cách hiệu quả, tiết kiệm
tài nguyên đất, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển bền
vững các hệ sinh thái. Chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi
khí hậu; nâng cao khả năng chống chịu, bảo đảm an toàn cho người dân.
Phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân và người dân nông thôn là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống
chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò, trách nhiệm của
người đứng đầu. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội trong việc giám sát, phản biện và vận động đoàn viên, hội viên, người dân
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
3.
Về vấn đề phát triển kinh tế tập thể
Hội nghị Trung ương
lần này cũng đã thống nhất cao về sự cần thiết phải tiếp tục khẳng định vị trí,
vai trò và những kết quả quan trọng đã đạt được của kinh tế tập thể nước ta
trong suốt 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX; đồng thời chỉ ra những
hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân. Trung ương cho rằng, có nhiều
nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ
yếu, đặc biệt là do: Nhận thức của nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền,
đảng viên và người dân về bản chất, vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tập
thể, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta chưa thật đầy đủ, thiếu thống nhất, thậm chí còn bị chi phối, ảnh hưởng bởi
định kiến về mô hình hợp tác xã kiểu cũ. Việc lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp
ủy đảng và chính quyền còn hình thức, chưa thực sự quan tâm, thậm chí còn lúng
túng, hoài nghi về sự thành công của kinh tế tập thể. Công tác hướng dẫn, chỉ
đạo thực hiện Nghị quyết, xây dựng thể chế, chính sách còn chậm, thiếu cụ thể,
hiệu quả chưa cao. Chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho kinh tế tập thể tuy đã có
nhiều nhưng còn dàn trải, phân tán, chưa thống nhất, thiếu nguồn lực để tổ chức
thực hiện. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể chưa được kiện toàn, còn
nhiều bất cập, không thống nhất, thiếu chặt chẽ, phân tán, hoạt động chưa hiệu
quả; ở một số nơi còn tình trạng buông lỏng quản lý hoặc can thiệp quá sâu,
không đúng đối với tính chất tổ chức, hoạt động của hợp tác xã; hoạt động thanh
tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật về kinh tế tập thể chưa sâu sát, chưa
thường xuyên. Việc đánh giá về hiệu quả và đóng góp của kinh tế tập thể còn
phiến diện, thiên về mặt kinh tế, chưa chú ý đúng mức đến mặt chính trị, văn
hóa, xã hội, môi trường,... dẫn đến hạ thấp vai trò, vị trí của kinh tế tập thể
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Kinh tế tập thể, hợp tác xã phần
lớn có quy mô còn nhỏ, năng lực nội tại còn yếu; đội ngũ cán bộ hợp tác xã cơ
bản chưa được đào tạo chuyên sâu. Việc tổng kết lý luận và thực tiễn về kinh tế
tập thể chưa kịp thời; tâm lý xã hội nói chung còn rất e ngại đối với kinh tế
tập thể; thành viên hợp tác xã vẫn còn tâm lý ỷ lại, dựa dẫm lẫn nhau hoặc
trông chờ sự trợ cấp của Nhà nước.
Ban Chấp hành Trung
ương Đảng yêu cầu, trong thời gian tới, phải tiếp tục quán triệt, nhận thức sâu
sắc, đầy đủ, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết của
Trung ương lần này về phát triển kinh tế tập thể phù hợp với yêu cầu và tính
chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng của nước ta. Phải thường xuyên quan tâm đổi mới, phát triển,
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, mà nòng cốt là các hợp tác
xã kiểu mới; coi đây là một thành phần kinh tế quan trọng cùng với kinh tế nhà
nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khẳng
định phát triển kinh tế tập thể là xu thế tất yếu khách quan và phải xuất phát
từ nhu cầu thiết thực của các thành viên; bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho
các thành viên hăng say làm việc, lao động tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả
sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững; tôn trọng các giá trị, nguyên tắc
hoạt động của hợp tác xã, phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế - xã hội của
từng địa phương, từng vùng và của cả nước. Kinh tế tập thể có nhiều hình thức
tổ chức, hợp tác đa dạng, phát triển từ thấp đến cao (tổ hợp tác, hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã...), trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Kinh tế tập thể phát
triển dựa trên sở hữu riêng của thành viên và sở hữu chung của tổ chức; tổ chức
hoạt động theo nguyên tắc đối nhân, không chỉ phụ thuộc vào vốn góp; phân phối
theo mức độ tham gia dịch vụ, theo lao động và theo vốn góp. Kinh tế tập thể
lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm cả lợi ích của thành viên, của tập thể và
lợi ích của xã hội, của Nhà nước; đồng thời coi trọng lợi ích về chính trị, văn
hoá, xã hội trên địa bàn. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm các cá nhân và
pháp nhân, thành viên chính thức và thành viên liên kết, cả người ít vốn và
người nhiều vốn, cùng góp vốn, góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, và quản lý dân chủ. Khuyến khích việc tích lũy
và sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản chung trong tổ chức kinh tế hợp tác. Phát
triển kinh tế tập thể cả về số lượng và chất lượng, trong đó chú trọng về chất
lượng; bảo đảm sự hài hòa trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, các địa bàn của
nền kinh tế; có chính sách ưu tiên các tổ chức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực
nông nghiệp, gắn hoạt động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng
dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát
triển các tổ chức kinh tế hợp tác gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh
tế tri thức. Đánh giá hiệu quả của kinh tế tập thể phải toàn diện, cả về kinh
tế lẫn chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh; về hiệu quả của tổ chức
và của các thành viên. Phải nhận thức rõ: Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động của kinh tế tập thể là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tập
thể, và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên. Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, Liên minh hợp tác xã phải phối hợp chặt
chẽ trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia phát triển kinh tế
tập thể.
4.
Về vấn đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên
Hội nghị đã thảo
luận sôi nổi, tâm huyết và thống nhất cao về sự cần thiết phải tạo cho được sự
chuyển biến mạnh mẽ và thực chất hơn nữa trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, góp phần xây dựng Đảng ta và hệ thống chính trị ở nước ta thật sự trong
sạch, vững mạnh toàn diện từ gốc, từ cơ sở; xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, nhất
là bí thư cấp ủy có đủ năng lực, uy tín lãnh đạo tổ chức cơ sở đảng thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ chính trị; nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng
viên và chất lượng đảng viên, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Trung ương đặc
biệt nhấn mạnh: Để thực hiện thành công mục tiêu tổng quát cũng như các mục
tiêu cụ thể đến năm 2025 và năm 2030 như đã đề ra, cần phải nâng cao hơn nữa sự
thống nhất về nhận thức, và đổi mới, hành động quyết liệt hơn nữa. Cụ thể là:
Về nhận thức, phải
xác định rõ tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ
sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, có
vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đội ngũ đảng viên có vai
trò trực tiếp và là nhân tố cơ bản quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh; nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, liên tục, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, đảng viên, góp phần củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phải gắn liền với xây dựng tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phải lấy kết quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng cơ sở và sự hài lòng của nhân dân làm
thước đo năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Quá trình
thực hiện phải thường xuyên kết hợp giữa xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh với củng cố, chấn chỉnh cơ sở đảng yếu kém; coi trọng công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng phải đi đôi với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị thực sự
trong sạch, vững mạnh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng;
bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, vai trò tiên phong, gương
mẫu trong sinh hoạt đảng; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đồng
thời, cần tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, nâng cao bản lĩnh
chính trị, tính tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc về sinh
hoạt đảng và lời thề của đảng viên khi vào Đảng. Phát huy thật tốt dân chủ
trong Đảng và trong xã hội; tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân và
chịu sự giám sát của nhân dân; phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và rèn
luyện đảng viên. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, chú trọng hơn nữa
đến việc rèn luyện, bồi dưỡng quần chúng, đối tượng cảm tình đảng, trước khi
vào Đảng phải thực sự là những quần chúng ưu tú không chỉ về năng lực công tác
mà phải thực sự tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức, lối sống, có động cơ trong
sáng với phương châm "quý hồ tinh bất quý hồ đa". Thường xuyên rà
soát, sàng lọc, kịp thời và kiên quyết đưa những người không còn đủ tư cách
đảng viên ra khỏi Đảng.
Về hành động, cần
khẩn trương, nghiêm túc xây dựng và tổ chức thực hiện thật tốt các chương
trình, kế hoạch hành động liên quan đến việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ
và giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết lần này của Trung ương đã đề ra, như: Đổi
mới, hoàn thiện tổ chức của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; rà soát, sửa đổi,
bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác cho
phù hợp với từng loại hình tổ chức cơ sở đảng. Xác định rõ những mục tiêu, yêu
cầu, nhiệm vụ và giải pháp đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức
cơ sở đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt của đảng bộ, chi bộ; bồi dưỡng, nâng
cao năng lực lãnh đạo, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cấp uỷ viên các cấp...
Để thực hiện thành
công mục tiêu, yêu cầu và các nhiệm vụ và giải pháp đề ra, Ban Tổ chức Trung
ương và các Ban Đảng, các cơ quan tham mưu, giúp việc ở Trung ương cần sớm có
hướng dẫn tổ chức thực hiện; các tỉnh, thành ủy, các đảng bộ trực thuộc Trung
ương phải thực sự năng động, chủ động cụ thể hoá các quan điểm, mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp mà Nghị quyếtcủa Trung ương đã đề ra, sao cho thật sát hợp với
yêu cầu, nhiệm vụ chính trị và đặc điểm của địa phương mình, ngành mình, cơ
quan, đơn vị mình; và đặc biệt là từng cơ sở đảng phải đề ra và tổ chức thực
hiện thật nghiêm, thật tốt những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với cơ sở
mình. Từng đảng viên cũng phải xác định rõ bổn phận và trách nhiệm thiêng liêng
và cao cả của mình khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, không ngừng phấn đấu
và rèn luyện bản lĩnh chính trị, tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, lối sống;
thường xuyên tự phê bình và phê bình, gương mẫu học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức phong cách Hồ Chí Minh. Chỉ có như vậy thì tổ chức đảng và đảng viên
mới thật sự trong sạch, vững mạnh, có uy tín với quần chúng nhân dân. Trong quá
trình thực hiện Nghị quyết, cần hết sức coi trọng tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng, qua đó kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng các
điển hình tiên tiến; kịp thời củng cố các tổ chức đảng yếu kém; xử lý nghiêm
các đảng viên thoái hoá, biến chất, vi phạm pháp luật và kỷ luật đảng. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua các hoạt động của
mình, phát huy vai trò của đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia xây dựng
Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh.
5.
Về Báo cáo kết quả kiểm điểm, tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư năm 2021
Ban Chấp hành Trung
ương đánh giá cao sự chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức nghiêm túc, trách
nhiệm, gương mẫu của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; và hoàn toàn đồng tình, nhất trí
cao với Báo cáo, đặc biệt là những bài học kinh nghiệm dẫn đến thành công của
năm 2021 được rút ra, đó là: (1) Tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ
chốt là một tập thể đoàn kết, thống nhất, trên dưới đồng lòng, đã phát huy
những bài học kinh nghiệm được rút ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng; tập trung chỉ đạo triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ,
thường xuyên công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm
"dân là gốc"; lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm chính trị cao, hành
động quyết liệt, có bước đi phù hợp; chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng
tình hình; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển
đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; khai thác, sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn lực để phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (2) Trong
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bám sát Quy chế làm
việc, Chương trình làm việc toàn khóa và Chương trình làm việc năm 2021, bảo
đảm sự chỉ đạo, điều hành khoa học, phối hợp nhịp nhàng, thống nhất, không có
tình trạng chồng chéo hoặc "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược". (3)
Phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có đổi mới, có sự phân công,
phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, bảo đảm được sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trực
tiếp, toàn diện.
Đồng thời, Trung
ương cũng đồng tình, nhấn mạnh thêm sự cần thiết phải tập trung ưu tiên lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong năm
2022 do Bộ Chính trị, Ban Bí thư đề ra trong Báo cáo.
6.
Về một số vấn đề quan trọng khác
Bên cạnh những vấn
đề nêu trên đây, Ban Chấp hành Trung ương cũng đã bàn và thống nhất rất cao về
chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,
coi đây là việc làm cần thiết, đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế hiện
nay. Nghiêm túc tổ chức, hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như
nêu trong Đề án chắc chắn sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, tạo sự chuyển
biến tích cực, mạnh mẽ hơn nữa, hiệu lực, hiệu quả cao hơn nữa trong công tác
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta theo
đúng tinh thần: "Trên Dưới đồng lòng, Dọc Ngang thông suốt!".
Tại Hội nghị này,
Trung ương cũng đã nghe báo cáo chuyên đề về cuộc "Xung đột Nga -
U-crai-na: Tác động quốc tế và những vấn đề đặt ra". Hội nghị đã biểu thị
sự đồng tình, đánh giá cao về những chủ trương, quyết sách kịp thời, đúng đắn,
sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta trước những diễn biến mới rất phức tạp tại
U-crai-na và trên thế giới; đồng thời yêu cầu phải tiếp tục theo dõi sát sao
tình hình; dự báo các tình huống, khả năng có thể xẩy ra để chủ động có các
phương án ứng phó kịp thời, phù hợp, có hiệu quả; giảm thiểu tối đa những tác
động tiêu cực, theo đúng tinh thần "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác
tin cậy, có trách nhiệm của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế".
Thưa
các đồng chí,
Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thành công tốt đẹp, hoàn thành
có chất lượng cao một khối lượng công việc lớn, rất quan trọng. Chúng ta đã bàn
và nhất trí cao về nhiều chủ trương, định hướng cơ bản, quan trọng trên các
lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Thành công của Hội
nghị Trung ương lần này, ngoài sự nỗ lực tích cực, đầy tinh thần trách nhiệm
của các đồng chí Trung ương, các đồng chí tham dự Hội nghị, các cấp uỷ, chính
quyền, các cơ quan và cán bộ tham mưu, còn có phần đóng góp quan trọng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân cả nước, đặc biệt là các đồng chí cán bộ lão thành,
các chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý, những người luôn luôn quan tâm,
nhiệt tình hưởng ứng và có nhiều ý kiến đóng góp tâm huyết, trí tuệ cho công
việc chung của Đảng và Nhà nước. Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tôi
xin trân trọng cảm ơn những tình cảm và sự đóng góp quý báu đó. Tôi tin tưởng
rằng, với thành công của Hội nghị lần này và với truyền thống đoàn kết, nhất
trí trong Đảng, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư; sự ủng hộ, hưởng ứng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhất
định chúng ta sẽ tổ chức thực hiện thành công các Nghị quyết, Kết luận của Hội
nghị Trung ương lần này, góp phần từng bước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Tôi xin tuyên bố bế
mạc Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Chúc các đồng
chí mạnh khỏe, hạnh phúc, hoàn thành xuất sắc trọng trách trước Đảng và nhân
dân với niềm tin mới và khí thế mới.
Tôi
xin trân trọng cảm ơn./."
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét