Mùa Thu năm 1950, trong khi bộ đội, dân công đang dồn dập hành quân lên Cao Bằng mở chiến dịch Lê Hồng Phong giải phóng vùng biên giới Việt Trung, thì ngày 05/9/1950 ở thị xã Thái Nguyên - Thủ Đô kháng chiến, Tòa án binh tối cao đã mở phiên tòa đặc biệt, xét xử vụ án đặc biệt.
Thiếu tướng Chu Văn
Tấn ngồi ghế Chánh án cùng 02 Hội thẩm viên là ông Phạm Ngọc Hải, Giám đốc Tư
pháp Liên khu Việt Bắc và ông Trần Tấn, Cục phó Cục Quân nhu, Thiếu tướng Trần
Tử Bình ngồi ghế Công cáo ủy viên (Viện Kiểm sát bây giờ) và nhiều cán bộ cao
cấp của Đảng, chính quyền, quân đội, nhân dân địa phương đến dự.
Có 03 bị cáo hầu tòa
là nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu và đồng bọn can tội:
“Biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến” bị đưa ra
trước vành móng ngựa.
Vụ án được phát hiện
từ bức thư của nhà thơ Đoàn Phú Tứ, đại biểu Quốc hội khóa 1 gửi lên Hồ Chủ
Tịch. Nội dung bức thư như sau: “Gần đây, Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần
Dụ Châu đã gây nhiều dư luận bất bình trong anh em quân đội, Châu đã dùng quyền
lực “ban phát” ăn mặc, nên Châu đã giở trò ăn cắp (công quỹ), cứ mỗi cái màn
cấp cho bộ đội Châu ăn bớt 2 tấc vải xô, nên cứ ngồi lên là đầu chạm đình màn.
Còn áo trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào, nhiều người biết đấy
nhưng không dám ho he.
Cháu (nhà thơ Đoàn Phú
Tứ) và 1 Đoàn nhà văn đi thăm bộ đội vừa đi chiến đấu trở về, cháu đã khóc nấc
lên khi thấy thương binh thiếu thuốc men, bông băng, hầu như hết chiến sỹ đều
rách rưới, võ vàng (vì) đói rét, chỉ còn mắt với răng mà mùa đông rét buốt ở
chiến khu lạnh lắm, lạnh tới mức nước đóng băng.
Cháu được Trần Dụ Châu
mời dự tiệc cưới của cán bộ dưới quyền tổ chức ngay ở chiến khu (nhiều tờ báo
viết ở phố Thanh Cù, xã Chấn Hưng, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, nơi đồng bào
Thủ đô tản cư lên buôn bán khá sầm uất).
Trên những dãy bàn dài
tít tắp (bày tiệc cưới) xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, giò chả, nấm
hương, thịt bò thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo
hạng, hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội cũng kịp đưa lên, ban nhạc “Cảnh Thân” được mời
từ Khu Ba lên tấu nhạc réo rắt, Trần Dụ Châu mặc quân phục Đại tá cưỡi ngựa
hồng, súng lục “côn bát” đến dự.
Trần Dụ Châu ngạo mạn,
mời nhà thơ (tức Đoàn Phú Tứ) đọc thơ mừng hôn lễ. Với lòng tự trọng của mình
(đương kim là đại biểu Quốc hội) nhà thơ đã thẳng thắn, dũng cảm xuất khẩu
thành thơ:
"Bữa tiệc cưới
của chúng ta sắp chén đẫy hôm nay,
Được dọn bằng xương
máu của các chiến sỹ.”
(Sau khi nhà thơ vừa
dứt lời, một vệ sĩ của Châu đã tát vào mặt nhà thơ, quát to: “Nói láo” - (Báo
Công lý ngày 9/10/2009).
Nhà thơ bỏ ra ngoài -
và viết thư tố cáo lên Bác Hồ.
Hồ Chủ Tịch đã trao
bức thư của nhà thơ cho Thiếu tướng Trần Tử Bình đang là Phó Bí thư Quân ủy
Trung ương, Phó Tổng Thanh tra Quân đội, Người nói:
“Đây là bức thư của
một nhà thơ gửi cho Bác, Bác đã đọc kỹ lá thư và rất đau lòng”, rồi Bác giao
cho Thiếu tướng chỉ đạo điều tra làm rõ vụ việc để xử lý.
Công tác thanh tra vụ
tiêu cực ở Cục Quân nhu được tiến hành khẩn trương, thu thập đủ tài liệu chứng
cứ từ Khu Bốn trở ra, Khu Ba gửi lên - Trần Dụ Châu hiện nguyên hình là một tên
gian hùng, trác táng, phản bội lại lòng tin của Đảng, của Bác, quân đội và nhân
dân.
Trước sự thật đau lòng
này, Bác Hồ dứt khoát nói: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ,
không để nó lây lan, nguy hiểm”.
Trần Dụ Châu đã bị Tòa
án binh tối cao phạt án “tử hình”, đồng thời bị tước quân hàm Đại tá theo công
lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 02 đồng bọn của Châu, mỗi tên bị phạt án tù
10 năm.
Tử tù Trần Dụ Châu gửi
đơn lên Hồ Chủ tịch xin tha tội chết. Ngày làm việc với đồng chí Trần Đăng
Ninh, Tổng Cục trưởng Tổng cục Cung cấp, xét lá đơn của tử tù, Bác chỉ cho đồng
chí Ninh thấy một cây xoan đang héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây xoan
sắp chết?
Dạ, thưa Bác vì thân
cây đã bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa...
Thế theo chú muốn cứu
cây ta phải làm gì?
Dạ, thưa Bác phải bắt,
giết hết những con sâu đó đi.
Bác gật đầu, nói “Chú
nói đúng, với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một
con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một
việc làm nhân đạo”.
Hồ Chủ tịch đã bác đơn
xin tha tội chết của Trần Dụ Châu.
Báo Cứu quốc ngày
27/5/1950 đã đăng bài xã luận viết về vụ này một cách công khai để nhân dân
biết, vụ án đã cho Chính phủ, Đoàn thể (Đảng) nhiều kinh nghiệm trong việc sử
dụng, giáo dục và kiểm soát cán bộ để phục vụ tốt cho kháng chiến, kiến quốc...
Mặc dù, có người e
ngại, vì nếu công khai vụ án này sẽ làm cho dân chúng chê trách, kẻ địch lợi
dụng để phản tuyên truyền, lợi ít, hại nhiều...
Đoàn thể (Đảng), Nhà
nước, Bác Hồ nghiêm khắc xử lý vụ án Trần Dụ Châu 72 năm trước đây vẫn là bài
học quý cho việc chống tham nhũng, lãng phí hiện nay, coi đây là việc làm nhân
đạo để củng cố niềm tin của quần chúng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét