Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
(LLCT) - Trong những năm gần đây, các thế lực chống đối trong và ngoài nước đã sử dụng các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội để thực hiện nhiều chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, đưa ra những luận điệu thiếu căn cứ, nhằm đánh lừa dư luận, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong đó chúng tập trung xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng hòng làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn Việt Nam, bài viết tập trung phân tích, khẳng định rõ sứ mệnh lịch sử và bản chất cách mạng của giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, góp phần nhận diện và phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
1. Xuyên tạc, phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ đề thường xuất hiện trong nhiều ấn phẩm của các thế lực thù địch, chống phá Đảng. Một số lập luận của chúng là:
Một, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là do C.Mác áp đặt. Theo luận điệu của chúng, thực ra giai cấp công nhân không thể và không có khả năng để tiến hành cuộc cách mạng nhằm sáng tạo ra một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không đủ khả năng để lãnh đạo cách mạng.
Hai, ngày nay nhờ có chủ nghĩa tư bản mà giai cấp công nhân đã được cải thiện rất nhiều về điều kiện lao động, có quyền sở hữu tư liệu sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, đã được “trung lưu hóa”, từng bước “thỏa mãn nhu cầu”, nên đã mất đi những “xung đột cách mạng” vốn có để hòa nhập vào đời sống mới của xã hội tư bản. Vì vậy, giai cấp công nhân không còn sứ mệnh lịch sử, và do đó sự tồn tại của Đảng Cộng sản là một sai lầm của lịch sử.
Ba, ngày nay khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì trí thức mới là lực lượng tiên phong của cách mạng chứ không phải giai cấp công nhân. Hơn nữa, trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ yếu là trí thức; không có hoặc có rất ít lãnh đạo là giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân chủ yếu đang làm thuê cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì vậy, Đảng không phải của giai cấp công nhân.
Bốn, với cách diễn đạt về bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam như trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) là hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, là trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”.
Năm, trong điều kiện đổi mới và phát triển kinh tế thị trường, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm cho Đảng biến chất giai cấp công nhân.
Hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên mà ngày nay, vấn đề vai trò và bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản đã trở thành một trong những đề tài đấu tranh tư tưởng gay gắt nhất. Các thế lực thù địch đang tìm và làm mọi cách để làm mất vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm phai nhạt bản chất giai cấp công nhân của Đảng, làm mất uy tín của Đảng trước nhân dân, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Cần khẳng định và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thứ nhất, việc luận chứng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là sự áp đặt của C.Mác. Trước Mác, Giăng Mêliê (1664 - 1729), nhà triết học duy vật Pháp, nhà cộng sản chủ nghĩa không tưởng đầu thế kỷ XVIII đã từng cho rằng, sứ mệnh giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột là thuộc về giai cấp nông dân. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy, giai cấp nông dân không thể lãnh đạo được phong trào cách mạng như Giăng Mêliê suy nghĩ. Hạn chế này ngoài vai trò chủ quan, thì xét đến cùng là do bối cảnh lịch sử quy định.
Không phải ngẫu nhiên mà C.Mác và Ph.Ăngghen phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, mà là cả một quá trình các ông nghiên cứu lý luận, thâm nhập vào thực tiễn và tổng kết thực tiễn để viết nên học thuyết của mình. Đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã có những bước phát triển mới làm cho mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản thực sự định hình. Trên cơ sở phân tích khoa học về quy luật vận động và phát triển của xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, trên cơ sở của chế độ tư hữu, đã hình thành hai loại người thuộc “hai cực” của xã hội: người bóc lột và người bị bóc lột. Trong xã hội tư bản hiện đại, sự phân cực này biểu hiện đặc biệt rõ nét, giai cấp tư sản quan hệ với người lao động như là đối tượng để “bòn rút” lợi nhuận, cố biến người lao động thành cái “đinh ốc” không quyền hành gì trong guồng máy kinh tế.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, là chủ thể vận hành các dây chuyền sản xuất tiên tiến. Những lực lượng sản xuất hùng hậu từng bước được tạo nên, cho phép tạo ra những giá trị về vật chất và tinh thần to lớn, đó là điều kiện để xây dựng một xã hội tốt đẹp vì con người. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi chưa đủ, mà phải thực hiện điều thứ hai - như C.Mác khẳng định, đó là giành lấy dân chủ, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó là sứ mệnh vĩ đại của giai cấp công nhân. Kết luận này được C.Mác và Ph.Ăngghen dựa vào những căn cứ sau:
Một là, giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất tiên tiến. Nhưng trong xã hội tư bản lại là giai cấp chịu áp bức, bóc lột trực tiếp nhất, mâu thuẫn đối kháng với giai cấp tư sản, nên đây phải là giai cấp đi đầu trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Các giai cấp, tầng lớp khác đấu tranh chống lại giai cấp tư sản hoặc bảo thủ, hoặc cải lương, thậm chí là phản động. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng... Các tầng lớp trung đẳng là những nhà tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ. Thậm chí, hơn thế nữa, họ lại là phản động: họ tìm cách làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại”(1). Hơn nữa, khác với các cuộc cách mạng xã hội trước đó, sau khi giai cấp thống trị thiết lập chế độ xã hội mới vẫn tiếp tục duy trì chế độ tư hữu. Trái lại, mục tiêu của cách mạng cộng sản chủ nghĩa do giai cấp công nhân thực hiện là triệt để xóa bỏ chế độ tư hữu: “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ(2). Cho nên, chỉ có giai cấp công nhân mới giải phóng triệt để con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột.
Ba là, bản thân nền sản xuất công nghiệp hiện đại đã hình thành ở giai cấp công nhân tính tổ chức, tính kỷ luật và giác ngộ cao nhất. Do lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển và xã hội hóa cao, đã làm cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân lúc này không chỉ diễn ra ở từng công xưởng, từng địa phương hay từng quốc gia nữa, mà dần lan ra toàn thế giới. Để chống lại phong trào công nhân, giai cấp tư sản các nước cũng buộc liên kết lại với nhau để đàn áp phong trào công nhân trên toàn cầu. Vì vậy, để giành thắng lợi trước giai cấp tư sản, giai cấp công nhân quốc tế phải đoàn kết, tổ chức mình lại dưới một chính đảng. Chính vì thế, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế - không chỉ giải phóng giai cấp mình, mà đồng thời giải phóng toàn xã hội.
Về thất bại của một số nước xã hội chủ nghĩa vừa qua là một bước thụt lùi nghiêm trọng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, song thất bại đó là do sai lầm của các đảng cộng sản ở các nước và qua đó cho chúng ta thấy được những vấn đề sau:
Một là, thất bại này không làm cho học thuyết sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân sụp đổ, mà chỉ rõ rằng, các đảng cộng sản, trước hết là những người nắm trọng trách ở những nước đó phải làm thế nào để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Hai là, thất bại này chứng minh một cách sinh động rằng, nếu giai cấp công nhân không phát huy mạnh mẽ nhân tố chủ quan, đặc biệt là không xây dựng được một chính đảng tiên phong trong sạch, vững mạnh thì không thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
Ba là, thất bại này cũng nói lên rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của chính đảng vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một quá trình khó khăn, lâu dài, nhiều bước quanh co mới đến đích. Trong quá trình ấy, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là không ngừng củng cố giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản.
Thứ hai, ở nhiều nước tư bản hiện nay đang có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất thông qua các chính sách kinh tế, xã hội. Điều đó đã làm thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân so với thời kỳ của C.Mác. Giai cấp công nhân ngày nay không còn hoàn toàn “vô sản”, mà đã có sở hữu và có thu nhập. Tuy nhiên, cho rằng giai cấp công nhân ngày nay đã được “thõa mãn nhu cầu”, hết khổ cực, không còn bị bóc lột là hoàn toàn không đúng. Nhiều công trình nghiên cứu xã hội ở các nước tư bản đã thừa nhận rằng, bên cạnh sự cải thiện đời sống, thì vẫn còn tình trạng bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân và người lao động, rất nhiều công nhân vẫn phải sống trong cảnh nghèo khổ, túng thiếu; khoảng cách phân hóa giàu nghèo không những không được rút ngắn mà nó ngày càng doãng ra.
Việc điều chỉnh quan hệ sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển là tất yếu. Chính vì vậy, ngay từ thời kỳ của C.Mác, việc giai cấp công nhân có sở hữu cổ phần đã được đề cập. C.Mác viết: “Trong các công ty cổ phần, chức năng tư bản tách rời với quyền sở hữu tư bản; và do đó lao động cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và về lao động thặng dư. Đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp”(3).
Về sau, V.I.Lênin còn chỉ rõ hơn thực chất của việc công nhân có sở hữu cổ phần dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đó là, “sự “dân chủ hóa” việc sở hữu cổ phiếu... thật ra chỉ là một trong những phương pháp tăng thêm uy lực cho bọn đầu sỏ tài chính”(4). Xét trên thực tế số cổ phần mà người công nhân có nhỏ hơn rất nhiều so với tổng tư bản của giai cấp tư sản ứng ra, nên công nhân không được tham gia vào quá trình phân phối kết quả sản xuất. Vô hình chung giai cấp công nhân bị bóc lột dưới một hình thức mới tinh vi hơn mà thôi. Vì “Thực tế ngày nay hoàn toàn chứng thực những ý kiến của Lênin phê phán những lý thuyết tư sản - cải lương về “dân chủ hóa tư bản”, mà người ta nặn ra nhằm tô điểm cho chủ nghĩa đế quốc và làm lu mờ sự thống trị của các tổ chức độc quyền. Bọn trùm tư bản đang lợi dụng việc lưu hành rộng rãi những cổ phiếu nhỏ để tăng cường bóc lột và lừa bịp nhân dân, để làm giàu cho chúng. Trái với những lời tuyên bố của bộ máy tuyên truyền tư sản nói rằng trong các nước đế quốc chủ nghĩa hiện nay, những cổ phiếu nhỏ (“nhân dân”), đang lưu hành rộng rãi, trong thực tế chỉ có một số ít công nhân lành nghề - những đại diện của cái gọi là tầng lớp công nhân quý tộc mới có thể mua được cổ phiếu”(5). Vì vậy, không phải khi giai cấp công nhân có cổ phần, cổ phiếu thì không còn bị bóc lột hay “tan biến” vào các giai tầng khác.
Điều cần lưu ý là, chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ cho rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bắt nguồn từ sự nghèo khổ và bần cùng hóa. Sự nghèo khổ, mức sống thấp kém làm cho công nhân căm thù chế độ đẻ ra tai họa cho người lao động, nhưng động lực cơ bản thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân nằm ngay trong bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ mâu thuẫn không thể điều hòa giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Hơn nữa, cũng không nên quan niệm rằng, một giai cấp có khả năng lãnh đạo cách mạng vì nó là giai cấp nghèo khổ nhất. Trong các xã hội cũ, đã có những giai cấp hết sức nghèo khổ và phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị, nhưng họ vẫn không giành và giữ được chính quyền, không trở thành giai cấp làm chủ xã hội, vì họ không có khả năng tạo ra một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn phương thức sản xuất cũ.
Lịch sử đã chứng minh rằng, giai cấp nào đại diện cho lực lượng sản xuất mới, có khả năng xây dựng một phương thức sản xuất tiến bộ hơn phương thức sản xuất cũ, giai cấp ấy mới lãnh đạo được cách mạng và tổ chức xã hội thành chế độ do mình đại diện. Những ai đem sự nghèo khổ, khốn cùng để luận giải cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin. C.Mác đã từng chỉ ra rằng, tầng lớp khốn khổ nhất trong xã hội tư bản là vô sản lưu manh. Đây là sản phẩm của sự tiêu cực thối nát, những tầng lớp thấp nhất của xã hội tư bản nhưng không thể làm cách mạng được. Bởi vì “tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy của sự thối rữa của những tầng lớp bên dưới nhất trong xã hội cũ, thì đây đó, có thể được cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào, nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại khiến họ sẵn sàng bán mình cho những mưu đồ của phe phản động”(6). Chính sự tồn tại của vô sản lưu manh là một trong những bằng chứng nói lên bản chất vô nhân đạo của xã hội tư bản, xã hội thường xuyên tái tạo ra tầng lớp đông đảo những người bị ruồng bỏ dưới đáy xã hội.
Thứ ba, trong điều kiện khoa học đang ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trí thức đóng vai trò càng quan trọng. Ngay khi khoa học còn chậm phát triển, thì trí thức cũng đã đóng vai trò quan trọng trong mọi chế độ. Tuy nhiên, để từ đó tuyệt đối hóa vai trò của trí thức, hạ thấp sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là hoàn toàn sai lầm cả lý luận lẫn thực tiễn.
Về mặt lý luận, thời đại nào trí thức cũng đóng vai trò quan trọng, song cần khẳng định rằng, quyền lực ở bất kỳ thời đại nào cũng nằm trong tay giai cấp thống trị, mà trước hết giai cấp đó thống trị về kinh tế. Do đó, với tư cách là một tầng lớp xã hội, trí thức không thể tách ra và lãnh đạo xã hội trong điều kiện xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trí thức lại càng không thể thay thế giai cấp công nhân là người lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì trong xã hội, trí thức là một tầng lớp xã hội không thuần nhất, thường bao gồm những người xuất thân từ các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau; trí thức chưa bao giờ là một giai cấp, không đại biểu cho một phương thức sản xuất, không phải là lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các giai - tầng xã hội khác. Hơn nữa, trí thức không có hệ tư tưởng riêng, mặc dù hệ tư tưởng của giai cấp thống trị thường do trí thức khái quát nên. Cho nên, trí thức chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng bởi hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, giai cấp công nhân không chỉ là những người lao động chân tay, mà cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ của giai cấp công nhân cũng phát triển tương ứng. Bắt đầu từ sau những năm 50 của thế kỷ XIX, khi nghiên cứu quá trình sản xuất và lưu thông của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã nhận thấy sự phân tầng, phân hóa về trình độ chuyên môn của giai cấp công nhân. Trong đó, những lao động trong lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ có trình độ cao hơn so với những lao động chân tay trực tiếp đứng máy. Vì vậy đã xuất hiện “giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp và thương nghiệp”(7). Về sau, Ph.Ăngghen còn nói cụ thể hơn khi viết: “Các bạn hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay, đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng sắp tới đây”(8). Vì vậy, trí thức hóa giai cấp công nhân là xu thế tất yếu của nền sản xuất hiện đại.
Về thực tiễn, mặc dù đa số những người lãnh đạo là trí thức, nhưng điều đó không có nghĩa là trí thức lãnh đạo và Đảng biến chất giai cấp công nhân. Xét về phương thức lao động cá nhân, thì có những người lãnh đạo và quản lý là trí thức. Nhưng họ không lãnh đạo với tư cách là đại diện cho trí thức, mà họ đang thực hiện công việc đó theo hệ tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản. Lãnh đạo ở đây với tư cách là ý thức hệ chứ không phải thông qua những con người thừa hành cụ thể. Hoạt động quản lý và hoạt động lãnh đạo là hai hoạt động khác nhau, mỗi hoạt động đều mang những đặc trưng riêng. Nếu lãnh đạo bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định và chính đảng của nó, thì hoạt động quản lý là lao động trí óc. Hay nói cách khác hoạt động lãnh đạo bắt nguồn từ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp quyết định, còn quản lý thì bắt nguồn từ sự phân công lao động xã hội: lao động quản lý hay lao động thừa hành. Do đó, có thể khẳng định rằng, hoạt động quản lý là vô cùng quan trọng, song trong quan hệ với hoạt động lãnh đạo, thì lãnh đạo quyết định quản lý, lãnh đạo quyết định phương hướng phát triển của các giai đoạn quản lý. Vì vậy, không có chuyện trí thức thay thế giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng.
Hiện nay, có một thực tế là, xét trong từng mối quan hệ cụ thể, thì một bộ phận công nhân nước ta hiện nay đang làm thuê cho các chủ doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là đặc điểm của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Nhưng từ đó để đi đến kết luận giai cấp công nhân Việt Nam làm thuê là không đúng. Bởi vì, xét trong tính tổng thể của một giai cấp, thì giai cấp công nhân Việt Nam làm chủ, lãnh đạo thông qua ý thức hệ chủ nghĩa Mác - Lênin và đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Không thể lấy cái bộ phận để đánh đồng với cái toàn thể để từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Thứ tư, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(9). Cách diễn đạt này là hoàn toàn đúng đắn, không hề hạ thấp hay từ bỏ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, trượt sang “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”... như quan điểm của một số người. Đây không phải là lần đầu tiên Đảng ta khẳng định điều này. Trước đó, trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) đã khẳng định: “Chính vì Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”(10). Trong bài nói chuyện ở Trường Cán bộ Công đoàn (1-1957), Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”(11). Việc khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng được thể hiện ở chỗ: nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng là tập trung dân chủ, liên hệ mật thiết với nhân dân, đoàn kết thống nhất trong Đảng, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế; cùng với quá trình đó là nêu cao tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì càng cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng trong việc diễn đạt bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng ta là một Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Cách diễn đạt bản chất giai cấp công nhân của Đảng như vậy, đòi hỏi Đảng chẳng những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp và dân tộc.
Thứ năm, hiện nay, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số đảng viên, cán bộ chủ chốt, cấp cao yếu kém về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng; một số có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hóa, biến chất về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu và xa dân... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính... Điều này đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Đảng cũng thừa nhận rằng, đó là một nguy cơ lớn, liên quan đến sự sống còn của Đảng và chế độ. Điều này là trái với bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đã từng được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin cảnh tỉnh về nguy cơ của một đảng cầm quyền là dễ dẫn đến kiêu ngạo, tha hóa, xa rời quần chúng.
Xét trên phương diện khác, việc một bộ phận cán bộ, đảng viên vi phạm, thì tự họ đã tự đánh mất bản chất giai cấp công nhân của đảng viên, có ảnh hưởng nhất định đối với Đảng, nhưng cũng không vì thế mà quy kết là Đảng đánh mất bản chất giai cấp công nhân, và theo quy luật họ sẽ bị đào thải để cho Đảng trong sạch, vững mạnh hơn. Đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Chính vì vậy, trong hai nhiệm kỳ gần đây, Đảng ta ban hành liên tiếp hai Nghị quyết chuyên đề liên quan đến những vấn đề cấp bách xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Đây là những biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt, kịp thời nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, tăng cường, củng cố bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2020
(1), (2), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.610, 626, 610.
(3), (7) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.25, phần 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.668, 595.
(4), (5) V.I.Lênin: Toàn tập, t.27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.439, 665-666.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.613.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.175.
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.295.
Nguồn : TS Phạm Văn Giang
Học viện Chính trị khu vực III
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét