Tư tưởng quản lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nền giáo dục Việt Nam kế thừa và thực hiện trong những năm qua. Tư tưởng này được thể hiện nhất quán trong đường lối, chủ trương phát triển giáo dục của Đảng, Nhà nước.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”(8).
Đại hội XI của Đảng xác định: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành”(9). Việc phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo được cụ thể hóa bằng các chủ trương phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với tất cả các ngành, nghề: kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ… Có thể nói, từ Đại hội XI của Đảng, các vấn đề liên quan đến giáo dục, đào tạo đã được đề cập một cách tương đối toàn diện và bao quát. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4-11-2013, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu rõ 7 quan điểm chỉ đạo nhằm thực hiện mục tiêu: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc”(10).
Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”(11), “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”(12), nhằm “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện”(13).
Từ khi thành lập nước năm 1945 đến nay, Việt Nam đã và đang thực hiện nhiều cuộc cải cách giáo dục. Tuy nhiên, điểm khác biệt là 4 cuộc cải cách trước đây chủ yếu xuất phát từ việc thay đổi cấp học, số năm học các hệ, từ đó kéo theo sự thay đổi chương trình sách giáo khoa, cải tiến chữ viết. Còn cuộc cải cách “căn bản và toàn diện” hiện nay lại xuất phát từ thực trạng chất lượng nền giáo dục.
Theo Báo cáo về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp, của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 7-3-2018, 100% các tỉnh/thành phố đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2; toàn quốc có 8.481 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia (đạt tỷ lệ 56,78%). Nhiều chỉ số về giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực: tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 khu vực ASEAN, chỉ sau Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng top đầu ASEAN; học sinh Việt Nam tham gia kỳ đánh giá quốc tế PASEC 10 năm 2011 đạt kết quả cao nhất trong cộng đồng các nước nói tiếng Pháp, các cuộc thi toán, IMC, Robotics, cờ vua... đều đạt thứ hạng cao(14).
Nhìn chung, trong gần 35 năm đổi mới, giáo dục và đào tạo đã đạt được nhiều thành quả quan trọng, đã tạo ra nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục và đào tạo các cấp từ cơ sở đến đại học, dạy nghề được tổ chức lại một bước”(15).
So với thời điểm trước khi ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, công tác xóa mù chữ cho đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản đạt mục tiêu là 97,65% (mục tiêu là 98%), 100% đơn vị cấp tỉnh, huyện và 99% đơn vị cấp xã đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 1 và 80,3% đơn vị cấp xã được công nhận xóa mù chữ mức độ 2.
Về ngoại ngữ, trước năm 1994, Chỉ số EF EPI (Chỉ số Thông thạo Anh ngữ -English Proficiency Index) của Việt Nam chưa ổn định, năm 2011 còn thuộc nhóm rất thấp, năm 2012 thuộc nhóm thấp, nhưng từ năm 2015 đến nay đã ở nhóm trung bình. Năng lực tiếng Anh của học sinh lứa tuổi 15 khá cao (tương đương B1) so với học sinh nhiều nước phát triển.
Tuy nền giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, các giá trị cao quý của nhà giáo, người thầy, của nhà quản lý giáo dục vốn từ xưa được tôn vinh, đề cao thì nay có lúc, có nơi có phần mai một trước những cám dỗ về vật chất. Đó là tình trạng một số giáo viên còn thiếu tâm huyết với nghề, tình trạng dạy thêm, tặng quà nặng về giá trị vật chất, sự thiếu khăng khít và tôn sư trọng đạo trong quan hệ thầy - trò…
Thứ hai, trong bối cảnh xã hội thông tin, khi kiến thức mọi mặt, mọi lĩnh vực có thể được tiếp thu từ nhiều nguồn qua sách, báo, đặc biệt là qua mạng internet, thì một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu thời kỳ mới, mới chỉ truyền thụ tri thức mà chưa hoàn thành vai trò người dẫn lối, định hướng cho học trò, chưa thường xuyên cập nhật kiến thức, xây dựng phương pháp, nội dung học tập phù hợp với đối tượng học, chưa áp dụng phương pháp dạy mới, gắn với thực tiễn, thiếu “kỹ năng mềm” khác như khả năng sử dụng công nghệ, khả năng ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, đối thoại...
Thứ ba, hệ thống giáo dục thiếu tính liên thông, ở cả chiều dọc theo các cấp học và chiều ngang theo hệ thống các trường bậc đại học. Hệ quả là đối với nhiều chương trình, học sinh, sinh viên phải học lại gây lãng phí thời gian, ngành giáo dục phải đào tạo lại gây lãng phí nhiều nguồn lực.
Thứ tư, việc hợp tác, liên kết với nước ngoài, hội nhập quốc tế của ngành chưa thực sự hiệu quả. Việt Nam là nước có ít trường đại học được xếp loại trên thế giới, giáo dục Việt Nam dường như vẫn “đóng” với giáo dục thế giới, bằng cấp, chứng chỉ của Việt Nam ít được thế giới công nhận.
LHQ-ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét