Một là, tổ chức và phân chia hợp lý các đơn vị hành chính - lãnh thổ.
Hiện nay, nước ta có 63 tỉnh, thành phố với quy mô diện tích và dân số nhỏ hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới; các đơn vị hành chính cấp tỉnh đều có đặc điểm chung là khá nhỏ về diện tích và quy mô dân số, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh không đều nhau, do đó, cần có sự liên kết trong các lĩnh vực, như địa lý, kinh tế, văn hóa,... trên cơ sở xây dựng mô hình chính quyền cấp vùng, tạo khả năng liên kết, phối hợp giữa các địa phương; tập trung các nguồn lực đầu tư, phát triển toàn vùng, hạn chế việc đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả, xóa bỏ sự cạnh tranh không lành mạnh và các xung đột về lợi ích cục bộ giữa các địa phương, phát huy vai trò của liên kết vùng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công chức, viên chức. Song song với việc tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp, cần nghiên cứu, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, tránh gây ra sự biến động lớn về vị trí việc làm, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ được bố trí, sắp xếp lại vị trí việc làm, đặc biệt là ở các địa phương đang triển khai mô hình chính quyền đô thị. Mặt khác, tăng cường thực hiện bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm mới; có chính sách thu hút, đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ đủ đức, đủ tài nhằm phát huy năng lực phục vụ của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền các cấp.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện chính quyền địa phương, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế pháp lý chính quyền địa phương trên cơ sở phân định vị rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa chính quyền Trung ương và địa phương, cũng như giữa các cấp chính quyền địa phương. Cụ thể, trong cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương, cấp tỉnh là cấp cao nhất, có địa vị pháp lý quan trọng, có thẩm quyền và chịu trách nhiệm chính đối với sự phát triển của địa phương; do đó, hoàn thiện thể chế chính quyền cấp tỉnh theo hướng tăng cường trao quyền và các nguồn lực, điều kiện đi kèm để đủ công cụ và thẩm quyền trong quản lý, điều hành công việc của địa phương, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong quản lý kinh tế - xã hội và kỷ luật, kỷ cương trên địa bàn. Đối với chính quyền địa phương cấp huyện (cấp chính quyền trung gian), cần chú trọng thực hiện chức năng, nhiệm vụ và xây dựng mô hình tổ chức cần linh hoạt theo đặc thù của các đơn vị hành chính). Đối với chính quyền địa phương cấp xã, (cấp chính quyền gần dân nhất, nơi thường xuyên tiếp nhận và giải quyết các vấn đề của nhân dân địa phương, có vai trò trực tiếp trong cung ứng các dịch vụ công và quyết định chất lượng thực thi dân chủ ở cơ sở), cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện chính quyền cấp xã, bảo đảm chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương; nâng cao hiệu quả hoạt động và bảo đảm thực quyền của cơ quan dân cử các cấp (HĐND).
Từ những nền tảng pháp lý hiện có về chính quyền địa phương, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của chính quyền địa phương, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới thể chế và bộ máy các cấp. Bên cạnh đó, cần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động và bảo đảm điều kiện để HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, có đủ năng lực quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương, do đó cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: một là, đổi mới cơ chế tuyển chọn đại biểu ứng cử HĐND các cấp theo hướng chú trọng phẩm chất, năng lực; tăng số lượng đại biểu chuyên trách, giảm số lượng đại biểu kiêm nhiệm; hai là, hoàn thiện cơ chế giám sát của HĐND ở hai phương diện: 1- Công khai, minh bạch hóa hoạt động giám sát; 2- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và quy trình giám sát của HĐND và các cơ quan của HĐND, đại biểu HĐND gắn với cơ chế tự chịu trách nhiệm của HĐND và đại biểu HĐND trong quá trình giám sát; ba là, trao quyền quyết nghị của HĐND về các vấn đề của địa phương do luật định, tránh sự can thiệp vào quá trình thực hiện vai trò, trách nhiệm của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Thứ năm, tăng cường xây dựng chính quyền điện tử.
Thúc đẩy quá trình xây dựng chính quyền điện tử, góp phần nâng cao mức độ hài lòng của người dân, tăng cường hiệu quả và bảo đảm minh bạch các hoạt động của chính quyền; giữ vững tính công bằng, chuẩn mực, hiệu quả, tiết kiệm trong quản lý nhà nước. Hiện nay, theo đánh giá của Liên hợp quốc, “Việt Nam đã có sự tăng hạng về chính phủ điện tử liên tục trong 6 năm (từ vị trí thứ 99 năm 2014 lên vị trí thứ 86 trong năm 2022)”(13), tuy nhiên đó vẫn là vị trí khá thấp trong bối cảnh bùng nổ khoa học - công nghệ. Thời gian tới, cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối và vận hành phần mềm quản lý tác nghiệp, từng bước mở rộng việc cung cấp các loại hình dịch vụ công; rà soát, bổ sung kịp thời các quy định để hoàn thiện cơ sở pháp lý và đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công, như quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu; tăng cường giải quyết thủ tục hành chính bằng môi trường điện tử, chuyển dần từ hình thức làm việc bàn giấy sang điều hành, xử lý công việc trên môi trường điện tử; nâng cao tỷ lệ và mức độ hiệu quả của việc tiếp nhận, xử lý thủ tục hành chính dịch vụ công, đẩy mạnh cải cách hành chính, công khai, minh bạch, chống tham nhũng, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp./.
LHQ-ST
bài rất hay
Trả lờiXóa