Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một nội dung cơ bản, quan trọng và xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của Người, đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Việc
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng “trọng dân” của Người trong xây dựng chính quyền
vì nhân dân phục vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi
các mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân dân: Trên cơ sở kế thừa truyền thống dân tộc và văn hóa
nhân loại, Người đã đưa ra quan niệm về dân với nội hàm rất rộng và chủ yếu đề
cập đến nhân dân Việt Nam, Người thường gọi nhân dân bằng nhiều cách gọi khác
nhau, như “dân”, “dân ta”, “dân chúng” hay “đồng bào”, thể hiện sự gần gũi và
dễ hiểu. Theo Người, dân là tập hợp đa số những người khác nhau về dân tộc, tôn
giáo, giới tính, giai tầng khác nhau, sống ở trong nước hay ở nước ngoài, không
phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo. Trong điều kiện là một nước
nông nghiệp, thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ yếu đề cập đến lực lượng trực
tiếp sản xuất, có tiềm lực vật chất và tinh thần to lớn, đó là những người dân
lao động, bao gồm công nhân, nông dân, trí thức; Người chỉ rõ: “Nhân dân là bốn
giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu
nước”(1). Trong nhiều bài viết, bài phát biểu, Người đề cập đến nhân
dân với nội hàm là mọi người dân nước Việt, là mỗi người con Rồng cháu tiên,
không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện, trong đó công nông
chiếm tuyệt đại đa số. Đó là nền tảng của quốc dân.
Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt sự khác nhau
giữa quốc dân và nhân dân. Quốc dân là mọi người Việt Nam chung gốc tích, văn
hóa, lịch sử, không phân biệt trong đó tính chất tiến bộ hay phản động. Người
cho rằng: “Nhân dân và quốc dân khác nhau. Nhân dân là bốn giai cấp công, nông,
tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của
quốc dân. Những bọn phản động chưa đến nỗi bị xử tử, vẫn là quốc dân. Nhưng
chúng không được ở trong địa vị nhân dân, không được hưởng quyền lợi như nhân
dân. Chúng không có quyền tuyển cử, ứng cử; không có quyền tổ chức tuyên
truyền, v.v.. Song chúng cần phải làm tròn nghĩa vụ, như phục tùng trật tự,
tuân theo pháp luật của nhân dân”(2). Như vậy, dân trong quan điểm
của Người là tập hợp tất cả người Việt Nam thuộc các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau, chủ yếu là những người lao động, nhưng không bao hàm những kẻ tay
sai, bán nước, phản động, xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Quan niệm về dân
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa tư tưởng “trọng dân”, thân dân trong
lịch sử và phù hợp với quan điểm của các nhà lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã
chỉ ra khi khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân.
Đề cao vai trò và sức mạnh của nhân dân: Từ khi có xã hội loài người đến nay, lịch sử xã hội là
do quần chúng nhân dân sáng tạo, xây dựng và là động lực thúc đẩy lịch sử tiến
lên không ngừng. Mọi sự kiện lớn lao hay các cuộc cách mạng xảy ra trong xã hội
đều có sự ủng hộ, tham gia tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân. Dân tộc
Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, đã hình thành
tư tưởng “trọng dân”, coi dân là gốc, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là
dân.
Tiếp
thu tinh hoa của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tư tưởng “trọng dân”
trong nhiều bài nói, bài viết và thực hành trong thực tiễn cách mạng theo chân
lý “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết
sức tránh”(3). Người nhiều lần khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc,
“Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(4);
có lực lượng dân chúng thì việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được.
Vai trò, sức mạnh của nhân dân càng được phát huy,
nhân lên gấp bội khi được tập hợp lực lượng hùng hậu, kết thành một khối thống
nhất. Theo Người, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(5). Có thể thấy,
Người đặt nhân dân ở vị trí trung tâm, sánh cùng trời, đất và xác định rõ không
có gì quý bằng nhân dân; không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân
và cũng không có gì chống được dân chúng - “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng
ống nào cũng không chống lại”(6). Từ việc tổng kết, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đi đến khẳng định một nguyên lý sâu sắc: Có dân là có tất cả, mất dân là
mất hết, “Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì
ta không thể làm tốt công tác”(7).
Chính vì đề cao, coi trọng vai trò, sức mạnh của dân
nên Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn “đối với dân, ta đừng có làm gì trái ý dân.
Dân muốn gì, ta phải làm nấy”(8), bởi “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý
nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại. Đó là lời
nói chí lý của thánh hiền đời xưa”(9).
Coi trọng và xác định nhân dân là mục tiêu, động lực
của cách mạng: Đây là một
trong những nội dung cơ bản của tư tưởng “trọng dân” Hồ Chí Minh, bởi dân là
điểm xuất phát và cũng là điểm đến cuối cùng trong toàn bộ quan điểm và hoạt
động cách mạng của Người. Ngay từ sớm, khi chứng kiến cảnh nước mất nhà tan,
nhân dân lầm than nô lệ, các khuynh hướng cứu nước của các bậc tiền bối thất
bại, Người dần hình thành chí hướng cứu nước gắn liền với cứu dân và quyết định
ra đi tìm đường cứu nước; từ đó, thâm nhập sâu rộng vào đời sống của nhân dân
(công nhân, nông dân) ở các nước chính quốc và thuộc địa để thấu hiểu, thấu cảm
và khơi dậy tinh thần đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức nô lệ. Toàn bộ sự
nghiệp cách mạng, Người chưa bao giờ nguôi nghĩ đến nhân dân, “Tôi hiến cả đời
tôi cho dân tộc tôi”, đến khi về với thế giới người hiền, Người cũng “không có
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa”.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những quan điểm
mang tính chiến lược của cách mạng đến những mong muốn thiết thực hằng ngày,
như tương, cà, mắm, muối, áo cho dân mặc, nhà cho dân ở... đều là mục tiêu cách
mạng của Người. Từ nhận thức đến chủ trương, quan điểm, nghị quyết, cương lĩnh,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tôn chỉ và chương trình
hành động của Mặt trận, đoàn thể... đều hướng vào mục tiêu vì nhân dân; nhân
dân là mục tiêu, lý tưởng của toàn bộ sự nghiệp cách mạng chứ không chỉ là vấn
đề mang tính nhất thời. Trong đó, tập trung cốt lõi vào các vấn đề, như dân tộc
độc lập, nhân dân tự do, đồng bào hạnh phúc, “Nhân dân luôn là tâm điểm của quá
trình tư tưởng Hồ Chí Minh và sự quan tâm của Người đối với nhân dân không bị giới
hạn trong các ranh giới địa lý. Mục đích của Người không chỉ là giải phóng đất
nước mình khỏi sự thống trị ngoại bang mà trong chiều sâu tư tưởng của mình,
bên cạnh mục đích giành độc lập dân tộc, Người còn mong ước đến sự công bằng,
bình đẳng và no ấm cho nhân dân mình”(10). Mục tiêu mọi chính sách
của Đảng và Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên phải
vì dân phục vụ.
Nhân dân không chỉ là lực lượng lao động chủ yếu, trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội, mà còn là động lực thúc đẩy cách mạng phát triển. Người khẳng định:
“Tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ
sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”(11).
Quần chúng nhân dân có mặt khắp mọi nơi, nếu được dẫn dắt bởi một tổ chức chính
trị với đường lối đúng đắn, khoa học thì lực lượng quần chúng sẽ thành một khối
thống nhất, có sức mạnh vô địch. Ngay từ khi hoạt động chính trị, Người đã nhận
thấy “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi
sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”(12).
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tổ chức và lãnh đạo giành được chính
quyền về tay nhân dân, Người càng nhận thấy sức mạnh to lớn của nhân dân, không
chỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn trong xây dựng xã hội mới.
Nhân dân không chỉ đóng góp tài lực, vật lực để giúp
đỡ cán bộ, đảng viên và tổ chức cách mạng, mà còn để tổ chức và giải quyết
thắng lợi nhiệm vụ của các phong trào cách mạng. Trong tiến trình cách mạng
Việt Nam, ở mỗi giai đoạn có những phong trào khác nhau được tổ chức nhằm giải
quyết nhiệm vụ đặt ra. Không chỉ trong đấu tranh chống ngoại xâm, mà còn trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thói quen và truyền thống lạc hậu. Các
phong trào được tổ chức thành công đều có sự đóng góp rất lớn và hiệu quả của
nhân dân. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những ngày đầu giành được chính
quyền, Người kêu gọi sự đóng góp của nhân dân, dựa vào nhân dân để giải quyết
nạn đói, nhờ sự ủng hộ cơ sở vật chất, tiền của của nhân dân mà tổ chức phong
trào diệt giặc dốt trên toàn quốc.
Để thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng này, cần
tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vào xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ ở các nội dung sau:
Thứ nhất, quán triệt quan điểm dân là chủ và dân làm chủ làm
nguyên tắc chỉ đạo xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ.
Xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ cần phát huy
quyền làm chủ thực sự của nhân dân trong hoạt động của Nhà nước. Đại hội XIII
của Đảng khẳng định, cần “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. “Tổ chức một cách
có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt
động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phẩm chất, năng lực của đội ngũ
cán bộ”(24). Muốn xây dựng chính quyền vì nhân dân, phải liên hệ
chặt chẽ với nhân dân và khuyến khích, động viên nhân dân sử dụng quyền công
dân và làm tròn nghĩa vụ công dân; tham gia bầu đại biểu đại diện cho mình để
thực thi chủ trương, chính sách và các hoạt động quản lý, phát triển xã hội của
Nhà nước. Từ đó, quyết định của cơ quan nhà nước phản ánh và đáp ứng tốt hơn
nguyện vọng của nhân dân, góp phần gia tăng sự hài lòng đối với cơ quan nhà
nước. Mặt khác, phải không ngừng nâng cao dân trí, giáo dục ý thức chính trị
của nhân dân tham gia tích cực vào các hoạt động của Nhà nước.
Thứ hai, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền là
chủ, làm chủ của nhân dân trong các hoạt động hành chính của nền công vụ.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật
theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân, có cơ
chế để nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn
đề của cơ sở, địa phương và cả nước; bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các
khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của
nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá
trình thực hiện.
Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ,
quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân
tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ
hưởng văn hóa; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao
nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế
trận lòng dân. Công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết,
phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Kiên
quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong bộ máy hành chính nhà nước,
như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm,
có lời nói, hành xử thiếu chuẩn mực với nhân dân gây bức xúc xã hội. Đồng thời,
xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, xâm phạm an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý là cơ sở xây dựng
Chính phủ điện tử tiến tới Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Nâng cao
chất lượng công tác xây dựng pháp luật theo hướng khoa học, hiện đại, chuyên
nghiệp. Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong xây dựng pháp luật và thi hành
pháp luật, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành. Đây vừa là xu thế khách quan, vừa là yêu cầu đòi
hỏi cấp thiết trong thời đại 4.0 hiện nay nhằm xây dựng chính quyền phục vụ
nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thật sự là công bộc của dân.
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện
nay, phải lấy tiêu chí phục vụ lợi ích nhân dân, hướng tới chân lý “Việc gì có
lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(25).
Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức để
họ trở thành những công chức chuyên nghiệp, thạo việc, công tâm và từng bước
hoàn thiện tiêu chuẩn đối với cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm
nhằm bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Giáo dục đội ngũ
cán bộ, công chức phải gần dân, lắng nghe, tiếp thu và phản hồi ý kiến của nhân
dân để vừa nắm bắt tâm tư tình cảm của dân, vừa kịp thời điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện nền công vụ trọng dân. Có cơ chế “khơi dậy tinh thần cống hiến vì
đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành
tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân;..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét