“Định vị” tự do báo
chí ở Việt Nam qua lăng kính đa chiều, khách quan
Hệ thống báo chí, truyền thông của
Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành quả từ những nỗ lực của
Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí.
Ở Việt Nam, báo chí được coi là
kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội,
bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc... Việc Nhà
nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do của con người,
trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tiếp
cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013
cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn
mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện
quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của
Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do
báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò.
Những thành quả trong bảo đảm quyền
tự do báo chí và tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam đã được
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt nêu rõ trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày
15-4-2024 và trong bài phát biểu khai mạc Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của
Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 4 của Hội đồng Nhân
quyền Liên hợp quốc, diễn ra tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 7-5-2024. Theo đó, sau
26 năm kết nối internet, Việt Nam đã có hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại
với độ phổ cập cao. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng
internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Số thuê bao băng rộng di động
là 86,6 triệu thuê bao, tăng 38% so với năm 2019. Theo thống kê của Hội Nhà báo
Việt Nam, tính đến hết năm 2023, Việt Nam có 6 cơ quan truyền thông đa phương
tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí và 72 cơ quan đài phát
thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí cũng đã lên tới
khoảng 41.000 người.
Chẳng thế mà chuyên gia phân tích
chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt
Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo của
Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương
tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình và cho
rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của
Việt Nam.
Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều
hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại
Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ
dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã
hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo,
Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông
tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ
99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ
chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết
các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn
đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.
Cũng cần nói thêm rằng, các cơ
quan báo chí, truyền thông ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò, chức năng
phản biện xã hội của mình. Bằng chứng là thể loại phóng sự điều tra trong khuôn
khổ Giải Báo chí quốc gia hằng năm và Giải Báo chí toàn quốc về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhận được sự quan tâm, tham gia của các nhà báo,
phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí trên cả nước.
Những con số mơ hồ và đánh giá
mang tính áp đặt
Bất chấp những nỗ lực và thành tựu
của Việt Nam trong bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do báo chí đã được các nước ghi nhận,
đánh giá cao, một số cá nhân, tổ chức vẫn cố tình đưa ra những đánh giá mang
tính áp đặt, định kiến và thiếu khách quan về vấn đề này.
Nhìn vào những thành quả trong bảo
đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt
Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất vọng về cái gọi
là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không
biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ
174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt
Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm
tù nhà báo có hệ thống”.
Tự do báo chí được coi như một
trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm
và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức
năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí
phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành
“báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính
nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói
thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ
thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà
đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi
vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo
chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm
pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc
hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều
phải làm việc đó.
Những cá nhân, tổ chức thường
xuyên phê phán tự do báo chí ở Việt Nam và tung hô tự do báo chí của phương Tây
có lẽ nên tham khảo những ví dụ được nêu trong báo cáo mà Trung tâm Nghiên cứu
Pew công bố hồi tháng 4 năm nay. Chẳng hạn, trong báo cáo này, Trung tâm Nghiên
cứu Pew cho biết, đại đa số người Mỹ coi quyền tự do báo chí là rất quan trọng
đối với sự thịnh vượng của xã hội, nhưng cũng có nhiều người bày tỏ lo ngại về
những hạn chế tiềm ẩn đối với quyền tự do báo chí ở Mỹ. Cụ thể, cứ 5 người Mỹ
thì có 1 người nói rằng giới truyền thông không được tự do hoặc hoàn toàn không
được tự do đưa tin ở Mỹ. Ngoài ra, 41% người Mỹ “cực kỳ hoặc rất lo ngại” về những
hạn chế tiềm tàng đối với quyền tự do báo chí ở nước này và 29% bày tỏ thái độ
“có phần lo ngại”. Vậy thì ở Mỹ, có hay không có tự do báo chí và ai mới có thể
là người đưa ra câu trả lời chính xác?
Thế mới thấy, việc đánh giá tình
hình tự do báo chí ở Việt Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa
trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên
thông tin do một số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung
cấp để rồi đưa ra những con số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang
làm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét