Thứ Năm, 12 tháng 8, 2021

Vạch trần những nội dung báo cáo sai lệch về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ, phần liên quan đến Việt Nam tuy có một số nội dung đánh giá tích cực hơn năm 2019, song chủ yếu vẫn có nhiều thông tin sai lệch trong đó sử dụng nhiều thông tin do “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” (BPSOS) cung cấp, thể hiện cách tiếp cận của Mỹ vẫn phiến diện, đưa nhiều thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam. Cụ thể, Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 đã ghi nhận việc Chính phủ Việt Nam quan tâm hơn đến đảm bảo tự do tôn giáo như: Quan chức Chính phủ tiếp tục tham dự Đại lễ Phật đản Vesak trong bối cảnh dịch COVID – 19; gửi lời chào và đến thăm các nhà thờ trong dịp Giáng sinh và Phục sinh; Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức 46 khoá đào tạo cho hơn 8.800 cán bộ Nhà nước và lãnh đạo tôn giáo, thanh tra việc thực thi Luật tín ngưỡng, tôn giáo tại các địa phương như Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng Ninh; một số Ủy ban của của Quốc hội cũng gặp gỡ quan chức và lãnh đạo của các nhóm tôn giáo địa phương để giám sát việc thực thi Luật; một số chính quyền địa phương tại Tây Bắc, Tây Nguyên đã cấp đăng ký sinh hoạt cho hơn 2.200 chi hội và công nhận 325 chi hội, đăng tải một số biểu mẫu đăng ký hoạt động tôn giáo lên các website chính thức để truy cập dễ dàng hơn; lãnh đạo của các tổ chức tôn giáo trên cả nước đánh giá quan hệ giữa các nhóm tôn giáo chưa được đăng ký với chính quyền các địa phương tốt hơn các năm trước, các nhóm tôn giáo đã đăng ký được tạo điều kiện thực hành tín ngưỡng mà ít bị chính quyền can thiệp; một số nhà xuất bản được cấp phép để in sách tôn giáo bằng tiếng Việt, Trung, Anh và tiếng dân tộc; tù nhân được tiếp cận tài liệu tôn giáo khi bị giam giữ nhưng có điều kiện kèm theo… Nhà thờ Tin lành Plei Mơ Nú thuộc xã Chư Á nằm cách trung tâm thành phố Pleiku (Gia Lai) trở thành một điểm đến quen thuộc của hàng trăm bà con tín hữu dân tộc Jrai. Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tiếp tục thể hiện quan điểm thiếu khách quan về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam như đưa ra thông tin việc Chính phủ không cho đăng ký và công nhận các nhóm tôn giáo trong năm 2020, chính quyền không công nhận bất kỳ tổ chức tôn giáo mới nào, trong đó phần lớn liên quan đạo Tin lành tại Tây Nguyên, Tây Bắc, Thiên chúa giáo, “Dương Văn Mình”. Đặc biệt, báo cáo đã trích dẫn nhiều thông tin sai lệch của “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” như: cho rằng chính quyền một số tỉnh Tây Nguyên đã chất vấn, đe doạ các thành viên của một số nhóm Tin lành chưa đăng ký như “Hội thánh Tin lành đấng Christ”, “Hội thánh truyền giảng Phúc âm”, “Hội thánh Đề ga quốc tế; vu cáo việc chính quyền gây cản trở và sách nhiễu khi có sự phân công và chuyển giao công việc giữa các chức sắc tôn giáo ở các điểm nhóm địa phương chưa đăng ký như trường hợp linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam ở giáo phận Vinh, mục sư Nguyễn Duy Tân ở giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai; hạn chế quyền tự do đi lại đối với các chức sắc tôn giáo và tín đồ của một số nhóm tôn giáo… Bên cạnh đó, báo cáo đã xuyên tạc việc cơ quan chức năng Việt Nam “đàn áp, sách nhiễu” các hội, nhóm tôn giáo chưa được thừa nhận, chưa đăng ký hoạt động, “phân biệt đối xử”, cáo buộc chính quyền địa phương “duy trì quy trình đăng ký, công nhận không đúng với quy định” nhằm làm chậm, không chấp nhận, cấm các hoạt động tôn giáo của các hội nhóm tôn giáo không chấp nhận sự quản lý của chính quyền; yêu cầu các hội, nhóm này cung cấp thông tin vượt quá khả năng cho phép, thậm chí đòi hối lộ để được tạo điều kiện trong đăng ký… Nội dung cáo buộc chính quyền cấp tỉnh “gây khó khăn” với các hội, nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng các dân tộc thiểu số khi đăng ký hoạt động. Chưa hết, báo cáo còn vu cáo chính quyền Việt Nam tiếp tục thông qua các điều luật, quy định “không rõ ràng” để kiểm soát, hạn chế” tự do tôn giáo; sử dụng điều khoản về an ninh quốc gia, các “tội danh mơ hồ” để “đàn áp, hạn chế” tự do ngôn luận, ngăn chặn các bài viết chỉ trích lãnh đạo Đảng, Nhà nước… đòi dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo. Thực tế, đây chỉ là những luận điệu xuyên tạc, thiếu khách quan trong Báo cáo tự do tôn giáo năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ và số đối tượng xấu trong Ủy ban Tự do tôn giáo Quốc tế Mỹ (USCIRF) lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Về các trường hợp linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam (giáo phận Vinh), linh mục Nguyễn Duy Tân (giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai), thời gian qua, các linh mục này có nhiều hoạt động không phải là hoạt động tôn giáo thuần túy, đã lợi dụng tòa giảng để chống chính quyền, có nhiều phát biểu đăng trên phương tiện thông tin đại chúng xuyên tạc lịch sử Việt Nam. Những hành vi này đã vi phạm Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định các hành vi bị nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo. Quy định này áp dụng đối với mọi người hoạt động tôn giáo ở Việt Nam và hoàn toàn phù hợp với khoản 3 Điều 18 của ICCPR (Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác). Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng được đảm bảo thực thi trong thực tế. Hàng năm, trong cả nước có hơn 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức. Việt Nam có 53 cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo. Tính đến nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo (hơn 20.000 cơ sở thờ tự, chiếm 80%) được sửa chữa, nhiều cơ sở thờ tự được xây mới. Bộ Nội vụ và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 1646/TTLT-TCĐC-TGCP, ngày 30/10/2000 về hướng dẫn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên diện tích đất cơ sở tôn giáo đang sử dụng. Tại các địa phương, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo được thực hiện đúng pháp luật. Nhiều tỉnh, thành phố giao đất với diện tích phù hợp cho các tổ chức tôn giáo, như: TP HCM đã giao 7.500 m² đất cho Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện Thánh kinh thần học; tỉnh Thừa Thiên - Huế giao 20ha đất cho Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế sử dụng; TP Đà Nẵng giao 6.000 m2 đất cho Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam sử dụng; TP Hà Nội giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam khoảng 11ha đất để xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội... Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện in ấn, phát hành kinh sách, đồ dùng việc đạo phục vụ hoạt động tôn giáo. Từ năm 2013 đến nay, đã có gần 6 ngàn xuất bản phẩm tôn giáo được xuất bản, hơn 19 triệu bản in; nhiều xuất bản phẩm được in bằng nhiều ngôn ngữ: Anh, Pháp, tiếng dân tộc; 15 tờ báo, tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động; phần lớn các tổ chức tôn giáo (kể cả tổ chức tôn giáo trực thuộc) có website riêng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo. Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer tại TP Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu đào tạo của tu sỹ Phật giáo Nam Tông Khmer. Kinh sách của các tổ chức tôn giáo đã được phép xuất bản bằng 13 thứ tiếng dân tộc. Năm 2020, có 5.000 bản in Kinh thánh bằng tiếng Ê đê, 3.000 bản in Kinh thánh tiếng Jrai. Tại khu vực các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước hiện có khoảng 583.000 tín đồ (97% là đồng bào dân tộc thiểu số) sinh hoạt tôn giáo tại hơn 2.000 Hội thánh, điểm nhóm. Tại khu vực miền núi phía Bắc có hơn 230.000 tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số sinh hoạt tôn giáo tại 1.640 Hội thánh, điểm nhóm. Hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng. Hàng năm, có hàng trăm đoàn của tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài; nhiều chức sắc nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam: Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa Minh thế giới tại Đồng Nai; Tin lành kỷ niệm 100 năm đạo Tin lành truyền vào Việt Nam; Giáo hội Phật giáo tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc năm 2019 tại Việt Nam đã thu hút sự tham dự của 3.000 đại biểu, trong đó có 1.650 đại biểu khách quốc tế đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, 250 kiều bào là tăng ni sinh từ 40 quốc gia, trên dưới 20.000 lượt tăng ni, phật tử tham dự các hoạt động bên lề của đại lễ và được dư luận quốc tế đánh giá cao.

Vẫn “lạc điệu” trong đánh giá tình hình nhân quyền ở Việt Nam

Ngày 20/6/2021 vừa qua, “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” đã công bố cái gọi là “báo cáo nhân quyền tại Việt Nam năm 2020-2021” dài 107 trang, trong đó đề cập đến 8 quyền: Quyền sống; quyền tự do và an ninh thân thể; quyền được xét xử công bằng bởi toà án độc lập và vô tư; quyền được tham gia đời sống chính trị quốc gia; quyền tự do phát biểu và tự do thông tin; quyền tự do tôn giáo và thờ phượng; quyền được làm việc và hưởng thụ thành quả lao động; quyền được đối xử bình đẳng không kỳ thị và quyền được hưởng cuộc sống an lạc. Đồng thời, báo cáo còn đưa ra 3 phụ lục về cái gọi là “danh sách tù nhân lương tâm bị bắt giam trong năm 2020-2021”; “danh sách tù nhân lương tâm còn bị giam cầm” và “giải thưởng Nhân quyền Việt Nam 2020”... Thêm một lần nữa, những nội dung trong báo cáo mà “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” đưa ra trong năm 2020-2021 đều phản ánh sai lệch, thiếu khách quan, xuyên tạc thực tế về vấn đề nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam. Báo cáo cho rằng, sau hơn 5 năm kể từ ngày vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, đến lần kiểm điểm định kỳ năm 2019 theo đánh giá của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam “vẫn chưa tương thích với Công ước quốc tế và Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm những quyền cơ bản, từ phân việt đối xử, bắt, giam giữ tùy tiện, vi phạm các đảm bảo về xét xử công bằng đến hạn chế quyền tự do tôn giáo, tự do quan điểm và biểu đạt, tự do lập hội”. Là tổ chức được thành lập vào năm 1997, có trụ sở tại Hoa Kỳ, “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” hoạt động dưới danh nghĩa “quy tụ một số cá nhân và đoàn thể dấn thân trong lãnh vực tranh đấu và bảo vệ nhân quyền và tự do mà mọi người dân Việt Nam đều có quyền hưởng như đã được quy định trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các văn kiện quốc tế nhân quyền khác”. Vậy nhưng trên thực tế, báo cáo mà họ đưa ra hằng năm đều đi ngược lại với mục đích, tôn chỉ hoạt động của mình, nội dung báo cáo sai lệch, phản ánh một cách phiến diện, thiếu khách quan, minh bạch về thực tiễn tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Pháp lý và thực tiễn khách quan về nhân quyền ở Việt Nam Trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước từ trước đến nay, quyền con người và pháp luật về quyền con người là nội dung rất quan trọng, được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Hiến pháp năm 2013 bao gồm 11 chương, 120 điều, trong đó riêng Chương II có 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, các nội dung liên quan đếnquyền con người không chỉ được quy định trong Chương II mà còn được đưa vào các chương khác của Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người được thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền con người của mình. Điểm đáng chú ý là khi quy định quyền con người, quyền công dân, các điều của Hiến pháp xác định rõ “mọi người có quyền”, “công dân có quyền” để khẳng định tính pháp lý của các quyền được Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Đồng thời, để bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống pháp luật về quyền của con người cũng đã được bổ sung, hoàn thiện như việc ban hành Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An ninh mạng… Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền con người, Việt Nam cũng đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền con người và được luật hóa. Cụ thể, tham gia 4 Công ước Geneve của Luật Nhân đạo quốc tế năm 1957 (cải thiện tình trạng cho thương binh và bệnh binh thuộc lực lượng vũ trang chiến đấu trên bộ; cải thiện tình trạng của thương binh, bệnh binh và những người đắm tàu thuộc lực lượng vũ trang trên biển; đối xử với tù binh chiến tranh; bảo vệ thường dân trong thời gian chiến tranh). Tham gia Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, ký ngày 24/9/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký ngày 18/12/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, ký ngày 19/3/1982; Công ước về quyền trẻ em, ký ngày 20/2/1990; Công ước về quyền của người khuyết tật, ký ngày 22/10/2007; tham gia trong việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền, ký ngày 23/10/2009, Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC), ngày 7/4/2010... Thời gian qua, quyền con người được quy định một cách rõ ràng, cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Việc đảm bảo quyền con người là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật. Những thành quả trong việc bảo đảm, tôn trọng quyền con người và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của mọi người dân được thể hiện trên mọi lĩnh vực, ở mọi điều kiện, hoàn cảnh và đã được cộng đồng quốc tế, Liên hợp quốc ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình như, Việt Nam là một trong sáu quốc gia thành viên Liên hợp quốc đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trước thời hạn năm 2015 và được xem là tấm gương điển hình của cộng đồng quốc tế trong thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau của Liên hợp quốc. Tạp chí The Economist tháng 8/2020 xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Năm 2019, Việt Nam đã vinh dự lọt vào tốp 10 danh sách những quốc gia đáng sống và làm việc nhất thế giới. Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số HDI cao nhất trên thế giới vào năm 2019. Theo Báo cáo “Phát triển con người năm 2019” được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 9/12/2019, với chỉ số HDI là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng 4,8 năm, số năm đi học trung bình tăng 4,3 năm, thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng trên 354%; tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống còn 3,73% (năm 2019)... Theo báo cáo của trang mạng "We are social", năm 2020 Việt Nam có hơn 68 triệu dân sử dụng Internet (chiếm tỷ lệ 70% dân số) với mục đích sinh kế, học tập, giải trí, biểu đạt và thực hiện các quyền con người của mình, kể cả những quyền dân sự, chính trị như tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản chính sách, pháp luật, văn kiện Đại hội Đảng. Đồng thời, với những thành tựu trong việc tôn trọng, bảo đảm về quyền của con người, Việt Nam được tín nhiệm là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Tại khóa họp lần thứ 73, tại trụ sở Liên hợp quốc vào ngày 7/6/2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần tuyệt đối (192/193 phiếu). Mới đây, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tháng 1 và tháng 4 năm 2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp, trong đó có vấn đề bảo đảm quyền con người trước đại dịch COVID-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao và thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam. Thành tựu đảm bảo nhân quyền tại Việt Nam trên các lĩnh vực đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế, đặc biệt là những thành tựu của Việt Nam trong việc phòng, chống dịch COVID-19 và bảo đảm quyền sống là quyền cao nhất trong đại dịch COVID-19 là những minh chứng rõ nét nhất trong bảo đảm quyền của con người trước những biến cố, đại dịch mà người dân trên toàn thế giới phải trải qua. Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” Trong báo cáo của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam còn đưa ra phụ lục về cái gọi là “danh sách tù nhân lương tâm bị bắt giam trong năm 2020-2021”; “danh sách tù nhân lương tâm còn bị giam cầm”... Tuy nhiên, đây cũng chỉ là âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp mà Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam sử dụng để chống phá Việt Nam. Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những công dân vi phạm pháp luật Việt Nam bị bắt giữ, truy tố và xét xử; các đối tượng bị bắt giữ, xử lý do vi phạm pháp luật Việt Nam, được điều tra, xét xử theo đúng quy định Bộ luật Tố tụng Hình sự, phạm nhân trong trại giam được bảo đảm các quyền theo quy định của pháp luật. Những người mà Mạng lưới Nhân quyền gọi là “tù nhân lương tâm” như Nguyễn Tường Thụy, Phạm Chí Dũng, Lê Hữu Minh Tuấn, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Nguyễn Văn Hóa... thì thực tế, đây là những đối tượng lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí, sử dụng mạng xã hội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự xã hội, cổ súy tuyên truyền chống phá đất nước. Hằng năm, Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam còn đưa ra cái gọi là “Giải thưởng Nhân quyền” để “vinh danh” những người vi phạm pháp luật bị bắt và xử lý. Mọi cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật Việt Nam thì lẽ dĩ nhiên phải chịu những hình thức xử lý của pháp luật Việt Nam và đó cũng chính là minh chứng trong việc bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức. Do đó, việc liệt kê danh sách các “tù nhân lương tâm” hay cái gọi là “Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam” hằng năm cũng chỉ là chiêu trò mà Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam hay một số tổ chức như RSF, AI, Freedom House... đã lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Và rõ ràng, thêm một lần nữa, họ lại chứng tỏ sự trái lối, lạc điệu trong tiếp cận vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Giúp dân bằng những việc làm thiết thực

Thời gian qua, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong Quân chủng Phòng không-Không quân (PK-KQ) đã tiến hành công tác dân vận (CTDV) bằng những hình thức, biện pháp, cách làm hiệu quả, góp phần lan tỏa hình ảnh bộ đội PK-KQ, tăng cường tình đoàn kết quân dân, xây dựng địa bàn đóng quân an toàn, làm cơ sở hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của CTDV, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị trong Quân chủng PK-KQ luôn xác định CTDV là một nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt cần tập trung lãnh đạo. Đại tá Nguyễn Văn Công, Trưởng phòng Dân vận, Cục Chính trị, Quân chủng PK-KQ cho biết: "Ngay từ đầu năm, các đơn vị chủ động phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể địa phương xây dựng kế hoạch, triển khai các nội dung hoạt động dân vận phù hợp điều kiện của đơn vị trên từng địa bàn nhằm bảo đảm cho CTDV phát huy hiệu quả cao nhất". Chúng tôi có dịp cùng đoàn công tác của Quân chủng PK-KQ đến xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế vào dịp cuối tháng 4-2021. Đây là thời điểm người dân địa phương rất khó khăn bởi ảnh hưởng nặng nề của trận lũ từ tháng 10-2020 để lại. Qua công tác phối hợp, hiệp đồng với cấp ủy, chính quyền địa phương, đoàn đã nắm bắt được nhu cầu thiết yếu của người dân là giống cây trồng, vật nuôi... để phát triển kinh tế. Ngay lập tức, đoàn cử cán bộ liên hệ với Công ty Cổ phần Giống cây trồng vật nuôi tỉnh Thừa Thiên Huế đặt mua 2.800 con gà giống để tặng 140 hộ dân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cũng trong đợt này, đoàn trao 18 tấn gạo, 1,2 tấn cá biển khô, các trang thiết bị nghe nhìn và nhiều phần quà tặng các đối tượng chính sách của địa phương; hỗ trợ 5 chốt kiểm dịch liên ngành của tỉnh các nhu yếu phẩm bảo đảm phòng dịch trị giá 75 triệu đồng. Là một trong những người được nhận hỗ trợ của đoàn công tác, ông Nguyễn Thời ở thôn Cổ Bi 3, xã Phong Sơn xúc động chia sẻ: “Đây là những món quà rất quý giá, vừa là nguồn động viên, vừa là nguồn vật chất giúp chúng tôi ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế. Chúng tôi rất biết ơn bộ đội PK-KQ”. Còn bà Lê Thị Mai Loan, Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện A Lưới, chia sẻ thêm: “Huyện ủy, UBND huyện cùng các đoàn thể địa phương rất cảm động trước tấm lòng của Đảng ủy, Bộ tư lệnh, cùng toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân chủng PK-KQ đã dành cho nhân dân chúng tôi. Việc làm này thể hiện trách nhiệm, tình cảm của bộ đội PK-KQ cùng với cấp ủy, chính quyền giúp đỡ nhân dân địa phương vượt qua khó khăn, góp phần củng cố mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa quân chủng với địa phương”. Tìm hiểu chúng tôi được biết, các phong trào thi đua: “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”... được các đơn vị trong quân chủng phối hợp triển khai sâu rộng, mang lại hiệu quả thiết thực ở nhiều địa phương, địa bàn trên cả nước. Trong 6 tháng đầu năm 2021, toàn quân chủng trích Quỹ “Vì người nghèo” hơn 1 tỷ đồng đã trực tiếp và thông qua tổ chức từ thiện xã hội để hỗ trợ các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên nhiều địa phương; hỗ trợ 255 trường hợp quân nhân trong quân chủng có gia đình bị thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2020. Các hoạt động “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”; thực hiện các chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo, giúp đỡ nhân dân phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; phòng, chống dịch Covid-19 được các đơn vị thuộc Quân chủng PK-KQ triển khai thường xuyên. Theo đó, các đơn vị đã tổ chức thăm viếng 253 nghĩa trang liệt sĩ và đài tưởng niệm; trao 684 suất quà (trị giá 480 triệu đồng) tặng gia đình chính sách, hộ nghèo trên địa bàn đóng quân dịp Tết cổ truyền; hỗ trợ kinh phí xây dựng 17 nhà đồng đội; xây dựng 2 nhà tình nghĩa, 4 nhà đại đoàn kết tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Cùng với đó, chương trình “Áo ấm mùa đông”, hoạt động tặng quà các gia đình hội viên phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn trong chương trình “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương” cũng được tổ chức quần chúng các đơn vị triển khai sâu rộng với số tiền ủng hộ hàng trăm triệu đồng, để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân. Hoạt động dân vận của Quân chủng PK-KQ đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần tô thắm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, tiếp tục làm sâu sắc hơn và làm tốt hơn chức năng đội quân công tác, lan tỏa hình ảnh “Người chiến sĩ PK-KQ ưu tú” trong lòng nhân dân.

Củng cố “thế trận lòng dân” ở vùng đồng bào có đạo

Thực hiện chức năng tham mưu quản lý nhà nước về quốc phòng, quân sự địa phương, những năm qua, Bộ CHQS tỉnh Đồng Nai luôn chăm lo thực hiện tốt công tác dân vận, vận động quần chúng ở vùng trọng điểm, nhất là vùng đồng bào có đạo, góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố vững chắc "thế trận lòng dân" trên địa bàn. Tỉnh Đồng Nai hiện có hơn 2 triệu người theo các tín ngưỡng tôn giáo, chiếm hơn 70% dân số. Những năm gần đây, lợi dụng vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, các thế lực thù địch ra sức kích động một bộ phận tín đồ tôn giáo chống đối chính quyền; cá biệt có đối tượng lợi dụng các trang mạng xã hội để kích động giáo dân gây ảnh hưởng đến hoạt động tôn giáo tại địa phương... Từ thực tế trên, để vận động phát huy vai trò của người đứng đầu các tổ chức tôn giáo và tín đồ tôn giáo tham gia giữ gìn trật tự xã hội, Bộ CHQS tỉnh chủ trương “gặp mặt chức sắc, chức việc các tôn giáo” để cùng nhau chia sẻ, tăng cường hiểu biết lẫn nhau. Theo Thượng tá Nguyễn Hữu Thủy, Phó chủ nhiệm Chính trị Bộ CHQS tỉnh Đồng Nai: “Quy mô lúc đầu tổ chức nhỏ lẻ; hình thức là trao đổi, giao lưu tạo mối đoàn kết, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Đến nay, việc gặp mặt đã trở thành mô hình tốt và là việc làm thường xuyên được Bộ CHQS tỉnh thực hiện vào dịp đầu xuân hằng năm”. Tại “diễn đàn” này, lãnh đạo Bộ CHQS tỉnh thông báo về tình hình kinh tế, xã hội, quân sự, quốc phòng của đất nước, của địa phương để các vị chức sắc biết; đồng thời chân thành trao đổi về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đối tượng cực đoan trong tôn giáo, lợi dụng chống phá cách mạng; từ đó đề xuất với các vị chức sắc, chức việc quan tâm tuyên truyền, vận động tín đồ nâng cao cảnh giác, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng LLVT cơ sở. Cũng trong các lần gặp gỡ, Bộ CHQS tỉnh lắng nghe ý kiến từ các tổ chức tôn giáo để có định hướng thực hiện công tác dân vận, vận động quần chúng trong đồng bào có đạo. Chính nhờ thực hiện mô hình này, nhiều năm qua, Bộ CHQS tỉnh và địa phương đã giải quyết tốt những vấn đề phức tạp về tôn giáo như: Đất đai, nơi thờ tự, trật tự xã hội ở vùng đồng bào có đạo... tạo chuyển biến, tiến bộ, nhất là ở khu vực Giáo xứ Bùi Đệ (huyện Trảng Bom); Giáo xứ Thọ Hòa (huyện Xuân Lộc), Trường Giáo dưỡng số 4-Bộ Công an (huyện Long Thành); Trung tâm Đức mẹ Núi Cúi (huyện Thống Nhất)... Mặt khác, khoảng cách giữa đạo và đời hài hòa hơn, gắn kết thân thiện với LLVT tỉnh. Linh mục Lê Vinh Hiến, Phó chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo tỉnh Đồng Nai chia sẻ: “Từ những lần gặp gỡ, tình cảm, mối quan hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa LLVT tỉnh và các chức sắc tôn giáo, tín đồ tôn giáo trên địa bàn thêm gắn bó. Chúng tôi ủng hộ các hoạt động của LLVT, tích cực tuyên truyền cho giáo dân phải là người công dân tốt trước khi là người Công giáo tốt. Muốn vậy, phải chấp hành nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuổi trẻ phải hoàn thành tốt nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc”. Đặc biệt, hiệu quả của mô hình đã tác động tích cực đến việc thực hiện công tác quân sự, quốc phòng ở cơ sở. Trong số hơn 3.000 thanh niên của tỉnh Đồng Nai nhập ngũ hằng năm, có gần một nửa là con em của đồng bào tôn giáo; khoảng một phần ba, lực lượng dân quân tự vệ cũng là các tín đồ tôn giáo, nhiều người phấn đấu trở thành cán bộ chỉ huy quân sự cấp cơ sở. Đây là nhân tố tiêu biểu trong xây dựng quân đội, xây dựng LLVT và thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở địa phương. Theo lời Giám mục Đinh Đức Đạo, nguyên Giám mục chính tòa Giáo phận Xuân Lộc: Ở đâu có quân đội, ở đó có tình thương, bác ái và tạo niềm tin cho nhân dân nói chung, đồng bào Công giáo nói riêng. Cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh luôn là “cầu nối” đoàn kết quân dân, đoàn kết tôn giáo trên địa bàn. Cùng với việc gặp gỡ, giao lưu, thực hiện chủ trương của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 7, Bộ CHQS tỉnh Đồng Nai chủ động phối hợp xây dựng công trình văn hóa-thể thao tặng giáo xứ và trao nhà tình nghĩa quân dân tặng giáo dân có hoàn cảnh khó khăn. Một trong những công trình tiêu biểu là khu sinh hoạt văn hóa-thể thao do Bộ tư lệnh Quân khu 7 và LLVT tỉnh Đồng Nai trao tặng Trường Cao đẳng Hòa Bình Xuân Lộc (thuộc Tòa Giám mục Xuân Lộc), cuối tháng 10-2020. Công trình thỏa niềm mong đợi của giáo dân, ban giám hiệu và học sinh nhà trường. Đại tá Huỳnh Thanh Liêm, Chính ủy Bộ CHQS tỉnh Đồng Nai khẳng định: “Những cách thực hiện công tác dân vận trong đồng bào có đạo mà LLVT tỉnh triển khai trong thời gian qua đã mang lại hiệu quả rõ rệt, thực sự phù hợp với địa phương có đông đồng bào có đạo như Đồng Nai. Hiệu quả của những cách làm ấy thiết thực góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, củng cố "thế trận lòng dân" vững chắc trên địa bàn”.

Phạm Trần xuyên tạc trắng trợn về “quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

 

Phạm Trần viết “Quá độ - nói phét vượt thời gian” đăng trên Danlambao ngày 3/6/2021 là sự bóp méo, xuyên tạc bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước hết, cần phải khẳng định với Phạm Trần rằng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và đó là nguyên tắc; là vấn đề cơ bản, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để Đảng xứng đáng với vai trò tiền phong. Xuyên suốt các văn kiện Đảng qua các kỳ Đại hội, nội dung trọng yếu này luôn được khẳng định. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng tiếp tục khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Ðảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Ðảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, những luận điệu đòi “xét lại” nền tảng tư tưởng của Đảng dưới dạng “hiến kế”, “tâm thư”, “góp ý”… theo hướng “tả khuynh” (tìm cách đánh tráo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin bằng những quan điểm vô chính phủ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng…) hay “hữu khuynh” (đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi thay thế những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin bằng những quan điểm, cải cách tư sản…); phủ nhận hoặc đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng; “xét lại” hay xuyên tạc bản chất chủ trương, đường lối của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như Phạm Trần nêu ra… đều là phản động và cơ hội chính trị. Bởi vậy, việc đấu tranh để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói chung, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng theo Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, bởi đó là nội dung cơ bản, có ý nghĩa sống còn của cả hệ thống chính trị.

Mặt khác, việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã được khẳng định từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930); tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện 13 kỳ Đại hội của Đảng. Vấn đề này cũng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Thực tế, xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó. Vì thế, tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, nhiều khó khăn, đầy thử thách và đương nhiên trong hành trình ấy, khó tránh khỏi những va vấp tạm thời. Không phải ngẫu nhiên các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác lại nhấn mạnh trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị”. Và với ý nghĩa đó, nói đến thời kỳ quá độ ở Việt Nam một cách phù hợp, hiệu quả, thì tất yếu phải đề cập tới thời kỳ quá độ gián tiếp, đó là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

Từ thực tiễn ở Việt Nam, nội dung độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (được xác định ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, tháng 2/1930 và vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được xác định là trải qua thời kỳ quá độ (từ Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 10/1930). Và vì, thời kỳ quá độ ở Việt Nam có điểm xuất phát thấp hơn, cho nên sẽ là lâu dài và khó khăn hơn (đã được khẳng định tại Đại hội II của Đảng, tháng 2/1951). Từ Đại hội VII, tháng 6/1991, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp” và lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng luôn phát triển và ngày càng được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện (từ Đại hội VIII, tháng 7/1996 đến Đại hội XIII của Đảng, tháng 1-2/2021). Chính vì thế, Phạm Trần và các thế lực thù địch không thể vì một số những hạn chế cần tiếp tục khắc phục trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng để xuyên tạc vai trò của lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân nói riêng và của cả hệ thống chính trị nói chung trong cuộc đấu tranh phòng và chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Một lần nữa, cần phải khẳng định với Phạm Trần rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đúng là “ý Đảng hợp lòng Dân” và vì thế đừng có mơ đòi “xét lại”; đồng thời cũng đừng có mong ý đồ thâm độc, thủ đoạn “bôi bẩn” của ông tác động được nhân tâm.

 

 

 

Để nhận biết thông tin xấu, độc, tin giả trong không gian mạng

 

Hiện nay, lợi dụng không gian mạng để phát tán thông tin xấu độc, giả mạo là thủ đoạn thường thấy của các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu, nhằm đạt được lợi ích của cá nhân, gây tác động tiêu cực đến một bộ phận không nhỏ của xã hội, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân, cộng đồng và văn hóa dân tộc. Vì vậy, cần phải nhận diện nhanh chóng, chính xác những thông tin xấu độc, giả mạo và các thủ đoạn hoạt động của chúng, góp phần vào cuộc đấu tranh chống âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Để nhận diện thông tin xấu độc, tin giả trên không gian mạng, cần phải:

Thứ nhất, tăng cường sự đề phòng, tính cảnh giác của bản thân khi tiếp xúc với thông tin được lan truyền trên không gian mạng. Luôn có quan điểm tham khảo khi sử dụng thông tin trên trên không gian mạng, nhất là thông tin được chia sẻ bởi mạng xã hội, chủ thể không rõ nguồn gốc, không xác thực.

Thứ hai, nếu là những thông tin đáng chú ý, thuộc lĩnh vực cần quan tâm, cần chú ý tiêu đề bài viết. Tin giả thường có tiêu đề hấp dẫn, giật gân, viết in hoa kèm dấu ký tự mang tính chất khẳng định, thường có vẻ khó xảy ra trong thực tế nhưng được viết dưới dạng khẳng định để thu hút sự chú ý của người đọc. Đồng thời, kiểm tra đường dẫn liên kết. Đường dẫn URL chứa tin giả thường giả mạo gần giống các trang tin chính thống như: đuôi tên miền .org dành cho các tổ chức phi chính phủ hoặc phi lợi nhuận nhưng không vì thế mà mất cảnh giác, bởi những trang này có thể đăng tải thông tin chủ quan vì mục đích riêng của tổ chức đó, chứ không hoàn toàn cung cấp thông tin khách quan cho người đọc. Kiểm tra kỹ mục “Liên hệ” hoặc “Giới thiệu” trên trang tin để tìm kiếm thông tin về cá nhân hoặc tổ chức đứng sau, xác định mức độ tin tưởng thông qua các thông tin được đề cập như: chức danh, chức vụ, học hàm, học vị, mức độ phản hồi của người dùng, tính xác thực của địa chỉ.

Thứ ba, tin giả thường không được chú trọng về cấu trúc ngữ pháp, thể thức văn bản, dễ có lỗi chính tả và ngữ pháp, không thống nhất. Hình ảnh sử dụng trong bài viết đa phần là ảnh trên mạng hoặc được chỉnh sửa cho phù hợp với nội dung nguồn tin. Cần kiểm tra xem ảnh có tồn tại trên không gian mạng thông qua tính năng “Search Google for image”. Về mốc thời gian sử dụng trong bài viết, tin giả được biên soạn và định dạng mốc thời gian không trùng với thực tế, do đó, cần xem kỹ các mốc thời gian, sự kiện có trong nội dung tin và thời gian đăng tải. Về các luận cứ, luận chứng trong bài viết, thông thường các tin giả được tạo ra được dựa trên một câu chuyện, tình tiết có thực nhưng được làm giả ở những nội dung quan trọng nhất. Để hạn chế tác hại của thông tin xấu độc, tin giả đòi hỏi mỗi cá nhân, cần nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác, nhằm phòng, chống thông tin xấu, độc trên không gian mạng.

 

Nhận diện những âm mưu xấu độc của kẻ thù

 

Suốt thời gian qua, các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta không ngừng nghỉ, chúng đã sử dụng những âm mưu thâm độc, nham hiểm bằng việc cố tình lợi dụng việc phát ngôn của một số người thiếu hiểu biết và có cái nhìn phiến diện về vấn đề nảy sinh khi sinh viên, tình nguyện viên của tỉnh Hải Dương vào thành phố Hồ Chí Minh tham gia chống dịch Covid-19. Chúng đã thổi phồng thông tin, đánh lái dư luận theo nhiều chiều hướng tiêu cực với mục đích suy yếu sức mạnh trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 và sâu xa hơn là âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Theo đó, chúng vẽ ra kịch bản trong tưởng tượng rằng, có một “âm mưu chính trị” đằng sau lý do giúp Thành phố Hồ Chí Minh chống dịch Covid-19 với cái mà chúng gọi là “đội quân Nam tiến của miền Bắc”; chúng huyễn hoặc và tự khẳng định “Thành phố Hồ Chí Minh có thể tự phòng, chống dịch chứ không cần người miền Bắc vào giúp đỡ”. Từ đây, họ kích động người dân tại Thành phố Hồ Chí Minh tẩy chay, từ chối sự giúp đỡ chống dịch của những tình nguyện viên từ các tỉnh. Không dừng lại ở đó, những kẻ bất mãn, thù địch còn cố ý gợi lại lịch sử đau thương của dân tộc trong thời kỳ đế quốc, thực dân chia cắt hai miền Nam - Bắc để phụ họa cho giọng điệu chống phá: “Miền Nam và miền Bắc không thể là một trong cuộc chiến chống dịch”.

Thực tiễn, hiện nay cả dân tộc đang chung sức, đồng lòng quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, sớm mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, để không chỉ Thành phố Hồ Chí Minh mà cả nước tiếp tục khôi phục sản xuất, ổn định và phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, mỗi chúng ta cần phải nhận diện và đấu tranh không khoan nhượng với những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.

GIỮA MÙA DỊCH MÀ CÓ NHỮNG CON NGƯỜI THIẾU TRÁCH NHIỆM, VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP DẪN ĐẾN VI PHẠM PHÁP LUẬT!

 GÀ QUÈ ĂN QUẨN CỐI XAY

------------------------------

Không có một trớ trêu nào hơn khi chiều ngày 12/8/2021, Công an quận Tây Hồ, Hà Nội đã khởi tố điều tra đối với một nhóm 4 phóng viên về tội cưỡng đoạt tài sản trong đó có 2 người đang là cộng tác viên của báo Pháp luật Việt Nam. 

Có thể nói nhóm 4 phóng viên này đạo đức nghề nghiệp chỉ được cái tồi tệ chứ nghiệp vụ lợi dụng báo chí không đến nỗi nào. Mùa dịch khó khăn trong tìm kiếm tin tiêu cực để phản ánh, để kiếm ăn thì các anh chị bàn nhau dàn dựng, tạo tình huống, sử dụng chính nghiệp vụ báo chí, mác nhà báo cưỡng đoạt của bà hiệu trưởng cả trăm triệu đồng. Đặc biệt, nhóm phóng viên này cũng khá thương đồng nghiệp khi san sẻ mối làm ăn của mình đề đồng nghiệp của mình có thể kiếm thêm 80 triệu nữa. Một tinh thần đồng đội được đánh giá khá cao từ kiếm chác cho tới bây giờ là bị khởi tố, vào tù cũng luôn có nhau.

Con giun xéo lắm cũng quằn/ Xéo đi xéo lại vẫn là con giun. Đạo đức thì thấp kém còn lại rất tham. Nhóm phóng viên hư hỏng trên đã bị bà Hiệu trưởng tố cáo ngược lại với cơ quan công an. Và giờ đây, không làm hiệu trưởng nữa thì thôi chứ có những kẻ sắp không được làm công dân nữa rồi. Những con sâu làm rầu nồi canh, trở thành những trường hợp đáng xấu hổ của nền báo chí nước nhà. Khi chúng có thừa sức lực và trí tuệ để cống hiến cho xã hội thì đám phóng viên này chỉ loanh quanh, luẩn quẩn lợi dụng quyền lực của báo chí, của phóng viên để tư lợi cá nhân. Chẳng biết trong vụ án lần này, báo Pháp luật Việt Nam có dám đưa tin về vụ án này hay không nữa. Giờ thì từ những người đưa tin trở thành những kẻ bị đưa tin.


Yêu nước ST.

Cảnh giác thông tin xuyên tạc của đối tượng phản động trên mạng xã hội


Ngày 12/8, Công an thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước phát đi thông tin cảnh giác đối với Trương Quốc Huy – Thành viên của tổ chức khủng bố Việt Tân.Theo đó, Trương Quốc Huy, SN 1980 tại TP Hồ Chí Minh, có cha là người nghiện rượu và bị bạn nhậu đâm chết trong một bữa nhậu. Trương Quốc Huy học hết lớp 7, từng đi bộ đội nhưng bị trả về do nghiện ma tuý.Để có tiền ăn chơi, Trương Quốc Huy liên kết với Lisa Phạm (thuộc tổ chức khủng bố Việt Tân) rải truyền đơn chống phá nhà nước, Trương Quốc Huy 2 lần bị bắt; lần bắt thứ 2 (vào năm 2005) bị kết án 6 năm tù, ra tù năm 2011 thì trốn qua Thái Lan, sau đó qua Mỹ tị nạn.


Sang Mỹ, dưới sự chỉ đạo của tổ chức khủng bố Việt Tân, Trương Quốc Huy lập kênh N10TV trên Youtube, Facebook để chia rẽ sự đoàn kết của người dân Việt Nam với chính quyền, kích động động bạo lực, gây bất ổn trong nước.


Trên kênh này, Trương Quốc Huy tỏ vẻ là người hiểu biết về tình hình trong nước. Tuy nhiên, Trương Quốc Huy chỉ lợi dụng các vấn đề mà báo chí đã đăng, suy diễn các vấn đề theo chiều hướng xuyên tạc, gây hiểu lầm cho người dân, dẫn dắt người dân theo chiều hướng tiêu cực nhằm chống phá sự ổn định của đất nước.


Thời gian qua, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam, kênh N10TV càng ra sức xuyên tạc, Trương Quốc Huy lớn tiếng chỉ trích Chính phủ, tỏ vẻ bề trên chỉ dạy cho Chính phủ chống dịch (trong khi công tác chống dịch của Chính phủ được thế giới công nhận là hiệu quả).


Công an thị xã Bình Long thông tin đến quần chúng nhân dân, đề cao cảnh giác, tỉnh táo trước các luận điệu xuyên tạc của đối tượng Trương Quốc Huy.

Ảnh: Đối tượng Trương Quốc Huy.


Hải Đăng ST

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 - SỰ KIỆN VĨ ĐẠI TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM

 

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công trong cả nước đã chấm dứt thời kỳ nô lệ của nhân dân ta dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Chính quyền phong kiến triều Nguyễn đã sụp đổ hoàn toàn.

Chủ quyền đất nước đã về tay nhân dân. Biết bao công việc bộn bề đang đặt ra trước mắt: chiến tranh tàn phá, kinh tế kiệt quệ, hậu quả tai hại của nạn đói chết 2 triệu người đầu năm Ất Dậu, mối đe dọa của lũ lụt ở đồng bằng Bắc Bộ và nguy cơ trở lại xâm lược của thực dân Pháp ở trong Nam.

Cách mạng tháng Tám thành công là thắng lợi của truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất, lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, quyết chiến đấu vì độc lập, tự do, không cam chịu làm nô lệ.

Đó là kết quả của 80 năm đấu tranh kiên cường, anh dũng, đầy hy sinh, gian khổ của dân tộc Việt Nam chống ách thống trị của thực dân Pháp, là thành quả suốt 15 năm chuẩn bị và đấu tranh gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương; là kết quả của quá trình vận động cách mạng qua nhiều cao trào, cùng với sự vận động chiến lược, sách lược, tạo và nắm thời cơ tài tình của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cách mạng tháng Tám cũng đập tan ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, lật đổ chế độ quân chủ, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Đó là nhà nước kiểu mới, nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, đại biểu cho quốc gia, dân tộc, mang bản chất của giai cấp công nhân do Đảng lãnh đạo. Từ đây, dân tộc Việt Nam bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và xã hội chủ nghĩa.

          Với ý nghĩa đó, Cách mạng tháng Tám và Nhà nước mới ra đời mở đầu cho các thắng lợi tiếp theo của cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và giành thắng lợi hoàn toàn./.

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA BIỂN ĐÔNG ĐỐI VỚI THẾ GIỚI, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM

 

Biển Đông là biển nửa kín, ven lục địa có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, là một trong những biển lớn nhất trên thế giới, nằm giữa từ vĩ độ 00 đến vĩ độ 250 Bắc và từ kinh độ 1000 Đông đến kinh độ 1210 Đông; trải dài từ bờ biển Việt Nam ở phía Tây đến các đảo Luzon, Palauwan và Borneo ở phía Đông và từ Trung Quốc ở phía Bắc đến Indonesia ở phía Nam. Ở phía Bắc, Biển Đông nối liền với biển Hoa Đông qua eo biển Đài Loan; ở phía Đông Bắc nối với biển Philippines của Thái Bình Dương qua các eo biển Luzon; ở phía Tây Nam nối với biển Andaman của Ấn Độ Dương thông qua các eo biển Singapore và Malacca; ở phía Nam thông ra biển Java qua các eo biển Karimata.

Biển Đông, tuyến đường ngắn nhất nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, cửa ngõ giao thương quốc tế. Tại đây có eo biển Malacca với chiều dài 600 hải lý và chiều rộng ở chỗ hẹp nhất chỉ 1,2 hải lý, nối liền các cảng biển của Đông Bắc Á, bờ Tây châu Mỹ với Nam Á, châu Phi, Trung Đông, Nam Âu, được dự báo sẽ trở nên quá tải hơn nữa do sự gia tăng thương mại toàn cầu và nhu cầu năng lượng của các quốc gia. Tuyến đường vận tải quốc tế qua Biển Đông được coi là nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Địa Trung Hải), chiếm hơn một nửa trọng tải vận chuyển thương mại hàng hải toàn cầu, sự sống còn không chỉ với các quốc gia và vùng lãnh thổ bao quanh, mà còn đối với khu vực Đông Á và thế giới.

Ngoài ra, trữ lượng dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản và hải sản ở Biển Đông có thể đảm bảo một phần đáng kể an ninh năng lượng, lương thực cho các nước ven bờ. Theo đánh giá sơ bộ của các nhà khoa học, trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tại đây có thể vượt cả trữ lượng dầu mỏ và khí đốt ở khu vực Trung Đông. Các khu vực được cho là có triển vọng nhất về dầu mỏ là thềm lục địa quần đảo Trường Sa, khu vực quần đảo Hoàng Sa và vịnh Bắc Bộ.

Đối với nguồn lợi hải sản, theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc, Biển Đông là vùng biển được xếp hạng thứ 4 trong số 19 khu vực đánh cá tốt nhất thế giới về tổng sản lượng đánh bắt cá hằng năm. Nguồn lợi hải sản ở Biển Đông được cho là có khoảng hơn 1.000 loài cá, 90 loài tôm và 70 loài thân mềm. Khai thác hải sản là một ngành kinh tế rất quan trọng đối với các quốc gia ven Biển Đông. Mỗi năm có khoảng 06 triệu tấn hải sản được đánh bắt tại đây, tương đương 10% tổng khối lượng hải sản được đánh bắt trên toàn thế giới.

Đối với Việt Nam, Biển Đông có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Không chỉ cung cấp nguồn thức ăn cho cư dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay, Biển Đông còn tạo điều kiện để phát triển các ngành kinh tế và là cửa ngõ để Việt Nam giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, nơi trao đổi và hội nhập của nhiều nền văn hóa. Đồng thời, là không gian sinh tồn để Việt Nam phát triển bền vững các ngành kinh tế mũi nhọn, như: thủy sản, dầu khí, giao thông hàng hải, đóng tàu, du lịch, v.v.

Ngoài ra, ven biển Việt Nam còn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa khoáng, như: than, zircon, thiếc, vàng, đất hiếm,... trong đó cát nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, thuận lợi cho việc đặt vị trí xây dựng các trạm thông tin, kiểm soát không lưu, hàng hải, dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu, thuyền,... trên tuyến hàng hải này và có ý nghĩa đặc biệt về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trên hướng biển./.

QĐND

VỆ TINH CỦA VIỆT NAM SẼ ĐƯỢC NHẬT BẢN PHÓNG LÊN QUỸ ĐẠO TRƯỚC THÁNG 3.2022

 

Tiến sĩ Lê Xuân Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (VNSC, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cho biết, vệ tinh của Việt Nam - NanoDragon sẽ được Cơ quan Hàng không vũ trụ Nhật bản (JAXA) phóng lên quỹ đạo vào khoảng thời gian trước tháng 3/2022.

Ngày 11/8, NanoDragon đã được chuyển đi từ sân bay Nội Bài đến sân bay Narita, Tokyo. Sau đó vệ tinh sẽ được chuyển về bãi phóng Trung tâm Vũ trụ Uchinoura, tỉnh Kagoshima để bàn giao cho Cơ quan Hàng không vũ trụ Nhật bản (JAXA), Nhật Bản.

NanoDragon là vệ tinh dạng cubesat lớp nano nặng khoảng 4kg với kích thước 3U (100x100x340,5 mm). Quá trình nghiên cứu, thiết kế, tích hợp, thử nghiệm chức năng vệ tinh này được thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam bởi các cán bộ nghiên cứu của VNSC.

NanoDragon được phát triển với mục đích chứng minh có thể dùng công nghệ chùm vệ tinh cỡ siêu nhỏ để thu tín hiệu nhận dạng tự động tàu thủy (Automatic Identification System - AIS) sử dụng cho mục đích theo dõi, giám sát phương tiện trên biển.

Ngoài ra, vệ tinh này cũng được thiết kế để nhằm xác minh chất lượng của hệ thống điều khiển và xác định tư thế vệ tinh và một máy tính tiên tiến mới được phát triển riêng dành cho vệ tinh cỡ nhỏ. NanoDragon dự kiến sẽ hoạt động ở quỹ đạo đồng bộ Mặt Trời ở độ cao khoảng 560km.

Nguồn: VietnamPlus

THẤM NHUẦN VĂN HÓA DÂN VẬN ĐỂ PHÁT HUY “ĐẢNG LÃNH ĐẠO, DÂN LÀM CHỦ”

 

   Ở những khía cạnh nhất định, công tác tư tưởng - tuyên giáo có sự giao thoa với công tác dân vận. Vì thế, bàn về văn hóa dân vận cũng là góp phần bàn về công tác tư tưởng. Dưới góc nhìn cá nhân, soi chiếu vào tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII, xin góp bàn một số vấn đề trên cơ sở “dân vi bản” trong truyền thống dân tộc và quan điểm “dân là gốc” “dân làm chủ” của Đảng.

   Văn hóa dân vận là một khái niệm mới được hiểu như một thuật ngữ ghép, tức là thái độ ứng xử có văn hóa trong việc tuyên truyền, vận động, tiếp xúc, giáo dục nhân dân. Gần đây, người ta nói nhiều đến sự hiện diện của các nhân tố văn hóa trong các lĩnh vực đời sống như văn hóa giao thông, văn hóa kinh doanh, văn hóa gia đình, văn hóa công sở, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật.v.v..

   Nói là mới, nhưng thực ra bản chất của vấn đề văn hóa dân vận không hoàn toàn mới. Hồ Chí Minh từ năm 1956 trong Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, trường Đại học Nhân dân Việt Nam có đại ý: thời gian nghiên cứu ở trường thì ngắn, nên việc nghiên cứu của các bạn ví như một hạt nhân bé nhỏ. Hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”. Minh minh đức tức là chính tâm. Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã sáng tạo nên nhiều thành ngữ sống mãi đến tận hôm nay: Quân và dân như cá với nước; Đi nhớ dân, ở thương dân; Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong. Trong Quân đội cách mạng, ngay từ đầu trong kháng chiến gian khổ đã ban hành điều lệnh: “Không lấy cây kim, sợi chỉ của nhân dân”. Với lực lượng Công an nhân dân, trong sáu điều dạy của Bác Hồ có lời giáo huấn: Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép.

   1. Nước ta là một nước văn hiến, “đứng hàng đầu Trung Châu, không nhường Hán-Ngụy”. Nền văn hiến đó bao chứa nhiều giá trị văn hóa giữ nước - trong đó hàng đầu và trung tâm là văn hóa giữ dân. Nói dân tộc ta có sức sống trường tồn, không bị đồng hóa trước âm mưu thôn tính của kẻ thù, quật cường đứng lên chống ngoại xâm là nói sức mạnh của dân, trách nhiệm của dân và lợi ích vì dân. Điều này thấy rõ dưới thời Trần với chính sách “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”. Thời nhà Trần có lệ đặt chuông ngay trước cung điện nhà vua để dân có oan ức thì kêu oan bằng những tiếng chuông giục giã, vua sẽ trực tiếp phán xử. Đó là việc làm nhân văn, công bằng, minh bạch. Thấy được nguồn lực to lớn của dân, các vua Lý, Trần đều có chính sách khuyến nông, an dân, dựa vào dân mà giữ nước.

   Cảm hứng chủ đạo thương dân, biết ơn dân cũng được thể hiện dạt dào trong trước tác của đại danh hào Nguyễn Trãi, mà những câu thơ sau là tiêu biểu: Chăn lạnh choàng vai đêm chẳng ngủ/ Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân; Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày... Cũng nhờ trân trọng và thấy rõ được sức mạnh to lớn của dân, nên sự nghiệp khởi nghĩa chống ngoại xâm của Lê Lợi cũng như nhiều bậc anh hùng hào kiệt nước nhà luôn có được nhân tâm: dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp.v.v..

   Dưới thời Quang Trung - người anh hùng áo vải “oai vũ mà nhân hậu” - trong nhiều bài thơ, hịch, dụ, chiếu, biểu của bậc minh quân cũng thể hiện rõ lòng yêu nước đồng nghĩa với tình thương dân, nước với dân có quan hệ khăng khít. “Vua không dân thì cùng ai giữ nước”; “Trẫm nay có cả thiên hạ, sẽ dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi đài xuân” “kéo dài phúc lành cho tôn miếu, xã tắc” (Chiếu lên ngôi); “Sinh dân phải nuôi dân làm trước” (Hịch Tây Sơn)... Ý nghĩa văn hóa của những tuyên ngôn đó nằm ở đường lối dân vi bản, giữ chặt lòng người.

   Xưa nay nói đến việc trị dân đều lấy việc dùng người làm gốc. Dưới thời nhà Nguyễn cũng có nhiều quan điểm cho thấy tầm quan trọng của chính sách thu phục giang sơn, quy tụ người tài trong dân. Đại thần Doãn Uẩn nói: “Làm chính trị cốt ở chỗ được người giỏi”. Tự Đức coi nhân tài là cội gốc để làm chính sự - muốn chỉnh lý chính sự cần phải có nhân tài. Thiệu Trị có nhiều bài thơ ca ngợi thiên nhiên đất nước và ý thức trân trọng người nông dân: Tam Thôi khuyến khóa khinh trì lỗi/ Chung tuế cần cù mẫn đạp lê (Lễ tam thôi để khuyên răn đừng xem nhẹ việc cày bừa. Biết xót thương những người suốt năm chăm chỉ việc cày cấy)...

   Trong thời đại chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới - là biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam và văn hóa dân vận. Để xây dựng nước ta từ nền Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa, giương cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh từ rất sớm đã ý thức rõ sức mạnh, quyền hành, lực lượng ở nơi dân. Tất cả các chính sách dân vận của Người và của Đảng ta đều có sự kế thừa tự giác từ truyền thống khoan sức dân, an dân, giữ chặt lòng dân của các anh hùng dân tộc, các bậc minh quân; thấm sâu mối quan hệ biện chứng giữa nước và dân, giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, giữa công quyền và dân quyền; vì mục tiêu: Lợi ích của dân, quyền hạn của dân, trách nhiệm của dân, công việc của dân.

   2. Nói văn hóa dân vận là nói mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo (công quyền) và dân làm chủ (dân quyền). Điều này đòi hỏi mọi chính sách của Đảng, Nhà nước phải thấm nhuần phương châm “giữ chặt lòng dân”, tức là phải hiểu rõ tâm trạng, nguyện vọng, niềm tin của đối tượng mà mình lãnh đạo. Muốn lãnh đạo có hiệu quả thì cán bộ, đảng viên không chỉ gương mẫu mà còn phải có tài năng. Người có vị trí lãnh đạo càng cao thì gương mẫu càng phải sáng, tài năng càng phải được thể hiện và phát lộ ở trình độ tổng kết lý luận, ở phương pháp giải quyết thực tiễn.

   Văn hóa dân vận cần tránh lối “huyên thuyên” “ba hoa chích chòe”, nói vô bổ, thiếu lượng thông tin hoặc nói mà không làm... Báo chí cách mạng - một binh chủng hữu hiệu của công tác tuyên giáo, đồng thời, cũng là phương tiện quan trọng trong công tác dân vận. Vì thế, bên cạnh việc làm tốt những chức năng cơ bản của mình, báo chí phải không ngừng thể hiện rõ vai trò tuyên truyền thúc đẩy sự nghiệp cách mạng, trong đó có văn hóa dân vận. Bàn về báo chí kiểu mới, V.I.Lênin đã từng khuyên: “hãy bớt nói huyên thuyên (...) bàn suông tán nhảm về chính trị (...), hãy gần đời sống dân nhiều hơn nữa”.

   Thực tế cho thấy, bên cạnh những kết quả to lớn đạt được, trong mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân hiện nay vẫn có nhiều chuyện đáng bàn, thậm chí có nhiều chuyện bức xúc, nhạy cảm đáng lo ngại. Dưới đây xin nêu ba hiện tượng, đồng thời là một số nguyên nhân, giải pháp, bàn góp dưới góc nhìn cá nhân:

    Một là, hiện tượng xa dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

   Không chỉ là quan liêu, xa dân trong giải quyết công việc, mà không ít cán bộ đảng viên còn ngại xuống với dân, ngại đối thoại với dân; trong sinh hoạt, gặp gỡ với dân thì thiếu dân chủ, thậm chí là hống hách, cửa quyền, coi thường dân; hình thức, qua loa, đại khái trong phê bình và tự phê bình; lảng tránh, thiếu cầu thị và sợ ý kiến đóng góp của người ngoài đảng.

   Vẫn còn những cán bộ thường tìm mọi cách để trì hoãn, “trốn” xuống cơ sở nắm bắt thực tiễn, nhưng lại đầy nhiệt tình hào hứng xách cặp đi “học tập kinh nghiệm” ở nước ngoài. Vẫn còn những cán bộ đảng viên dấu dốt, không muốn và không thích tham khảo, học hỏi ý kiến từ các chuyên gia; “dị ứng” với người tài, “tránh mặt” người nói thẳng nói thật...

   Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ sự hạn chế về năng lực trình độ, thiếu và yếu về phẩm chất chính trị và văn hóa dân vận, những khuyết điểm nêu trên còn có nguyên nhân từ sự thiếu trách nhiệm của cấp ủy; sự quan liêu của thủ trưởng cơ quan trực tiếp; sự trì trệ của các ban thanh tra, kiểm tra cấp trên...

    Hai là, hiện tượng dân thiếu thông tin.

   Bên cạnh phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được Đảng ta đề ra từ nhiều nhiệm kỳ trước, nhiệm kỳ Đại hội XIII lần này Đảng tiếp tục bổ sung 2 tiêu chí: “Dân giám sát, dân thụ hưởng”. Theo đó, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” không chỉ là phương châm hành động mà còn là một trong những mục tiêu cao nhất của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, để thực sự được biết, được bàn, được kiểm tra thì dân phải được có thông tin. Cung cấp thông tin cho dân theo đúng quy định không chỉ là tôn trọng, phát huy quyền dân chủ, mà còn là giải pháp quan trọng để dân có tiếng nói tích cực, xây dựng trong quá trình bàn bạc, kiểm tra, đóng góp ý kiến.

   Văn hóa dân vận chính là để phát huy cao nhất tinh thần dân chủ, để cho dân “được mở miệng ra” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dạy. Văn hóa dân vận cũng là để người dân không “đứng bên lề” chính trị. Trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ việc tiêu cực, gây bức xúc dư luận ở một số địa phương thời gian qua có nguyên nhân: cấp ủy, chính quyền cơ sở còn quan liêu, thiếu văn hóa dân vận, bưng bít thông tin với dân, nhất là những vấn đề liên quan đến dự án, đất đai, đền bù giải tỏa...

   Văn hóa dân vận - với việc cung cấp, đáp ứng đúng, đủ thông tin và nhu cầu thông tin của dân theo quy định, còn góp phần hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng dân chủ cực đoan, quá trớn. Việc dân chủ hóa, công khai hóa thông tin một cách kịp thời, đúng định hướng, có trọng tâm trọng điểm trước những vấn đề “nóng”, nhạy cảm sẽ góp phần giải quyết tình trạng dân chủ cực đoan trong một bộ phận nhân dân, đồng thời góp phần ngăn chặn những “luồng gió độc” - thông tin xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động.

   Chúng ta không sợ các loại thù địch chống phá, lợi dụng. Bởi bản chất của chúng là lợi dụng, xuyên tạc, kích động, chống phá. Chúng ta chỉ sợ dân biết không “đến nơi đến chốn”, lẫn lộn trắng-đen, không phân biệt được đúng-sai, thật-giả, dẫn đến hoang mang, đổ vỡ niềm tin. Vì thế, trừ những thông tin mang tính chất “quốc gia đại sự” liên quan đến an ninh, đối ngoại, bảo vệ chính trị nội bộ..., thì dân phải được biết, được có thông tin và được lý giải kịp thời, đầy đủ trước những vấn đề dư luận quan tâm. Tránh tạo cơ hội cho những “luồng gió độc” xuyên tạc, phản động “nhanh chân” hơn, chen vào “khoảng trống thông tin”. Thực tế cho thấy, một khi không có thông tin đầy đủ, kịp thời từ phía các cơ quan chức năng, thì người dân sẽ tìm đến với những nguồn tin khác qua Internet, mạng xã hội hoặc báo chí nước ngoài. Thực tế cũng cho thấy, một khi mất niềm tin với cuộc sống xã hội thực tại thì một bộ phận người dân sẽ “chạy trốn” tìm đến tôn giáo, trong đó có những loại tín ngưỡng si mê, cuồng tín, dị đoan.

   Ba là, hiện tượng tuyên truyền một chiều, hình thức, làm cho có, cho xong.

   Văn hóa dân vận không chỉ bó hẹp trong các phương thức tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước, mà còn là giáo dục, thuyết phục để họ có cơ hội nhận thức, tái nhận thức. Tuy nhiên, lâu nay chúng ta thấy vẫn còn tình trạng ở không ít nơi, trong quá trình tuyên truyền, người nói thì “nói cho xong”, người nghe thì “nghe cho có”. Nghĩa là chưa thực sự chạm đến ngưỡng giáo dục, thuyết phục. Vẫn biết tuyên truyền, vận động là một việc khó, bởi một trong những điều khó nhất ở đời là “nắm bắt” tư tưởng, tình cảm của con người. Nhưng không phải là “bất khả kháng”. Bởi nếu khó mà “buông xuôi”, thì Đảng ta đã không có được lòng dân để làm để làm nên những thắng lợi vĩ đại trong suốt 91 năm qua.

   Vì thế, bên cạnh những phương pháp cơ bản, đặc trưng, thì giải pháp quan trọng nhất để công tác tuyên truyền, vận động phát huy hiệu quả vẫn là hướng tới chiều sâu văn hóa.

   Theo đó, muốn làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục để “thu phục nhân tâm” thì, như đã nói, vai trò gương mẫu của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, phải được đề cao hàng đầu. Cấp trên làm gương để cấp dưới soi vào. Cán bộ, đảng viên làm gương để quần chúng tin tưởng, noi theo. Đó là dấu hiệu thực sự của văn hóa.

   Văn hóa dân vận là giáo dục để mọi người hiểu sâu những giá trị truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc; những kiến thức dự báo được tình hình và xu thế phát triển của đất nước; làm cho người dân, dù ở hoàn cảnh nào, trình độ hiểu biết đến đâu đều vượt qua được chính mình; để từ cán bộ, đảng viên đến người dân đều tự giác nhận thức được phê bình và tự phê bình là quy luật của phát triển, là sự trưởng thành của mỗi cá nhân - từ bước nhỏ cá nhân để đi bước lớn xã hội. Dù không thể một lúc giáo dục, sửa chữa được “tổng thể” khiếm khuyết trong toàn xã hội, nhưng văn hóa dân vận có thể sửa chữa được lỗi lầm của từng cá nhân, qua đó lan tỏa những hiệu ứng tích cực.

   Văn hóa dân vận còn là giáo dục ý thức, thái độ văn minh, ứng xử văn hóa giữa con người với con người, con người với thiên nhiên; đưa các phong trào hành động cách mạng đi vào chiều sâu, phát triển rộng khắp.

   Hơn tất cả, vượt qua tuyên truyền, vận động, giáo dục, văn hóa dân vận là nhịp cầu quan trọng để Đảng với dân “tuy hai mà một”, ý Đảng với lòng dân hòa quyện thống nhất; để cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” luôn được thực hiện tích cực, phù hợp, “tròn vai” trong mọi giai đoạn cách mạng, vì mục tiêu tối thượng: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

TÍNH CHẤT CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI – NGƯỜI ĐÓN NHẬN CÁC THÔNG TIN MẠNG CẦN LỰA CHỌN CÁCH TIẾP CẬN NÓ

Giữa thời khắc quan trọng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả Hệ thống chính trị đã đang và tiếp tục bám sát mọi diễn biến của đại dịch COVID-19, gồng mình theo dõi từng bước biến thể của nó nhằm ngăn chặn sự lây lan, đẩy lùi mọi nguy cơ; đồng thời thực hiện “mục tiêu kép” – Vừa phòng, chống dịch bệnh vừa phát triển kinh tế thì nhiều kẻ tự cho mình là “yêu nước”, ”thương nòi” , lợi dụng các phương tiện truyền thông chống lại Đảng, chống lại Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, mà cụ thể trước mắt là gây rối loạn trong nhân dân. Vậy, chúng ta cần hiểu thêm công cụ này – Đó là Tính chất của dư luận xã hội.

Dư luận xã hội dưới hình thức nào và thuộc loại nào cũng đều có một số tính chất cơ bản sau: 1)Tính công chúng; 2)Tính công khai; 3) Tính trao đổi; 4) Tính lợi ích; 5)Tính lan truyền; 6) Tính thống nhất và mâu thuẫn;

Tính công chúng: Dư luận xã hội luôn là ý kiến của công chúng, có nghĩa là của nhiều người,  đông người, vô số người, thậm chí là của đại chúng. Dư luận xã hội có thể xuất phát từ ý kiến của một cá nhân nhưng đó là ý kiến được nhiều người nghe, chia sẻ, bảy tỏ về những vấn đề chung.

Tính công khai: Nói tới hình thức biểu hiện của dư luận xã hội. Dư luận xã hội luôn là ý kiến được phát biểu, bày tỏ dưới nhiều hình thức khác nhau cho nhiều người, đông người, công chúng cùng biết. Theo lý thuyết “Vòng xoáy của sự im lặng” của Elisabeth Noelle - Neumann đưa ra năm 1972, dư luận xã hội có thể được hiểu là ý kiến được nói công khai mà không sợ bị trừng phạt[1].

 Tính trao đổi: Nói tới cơ chế này sinh, vận hành của dư luận xã hội. Thông qua sự tương tác, trao đổi thông tin, tình cảm mà dư luận xã hội được hình thành, biểu hiện và thực hiện các chức năng của nó. Trao đối là cho dư luận xã hội lan truyền từ người này sang người khác, từ nhóm này sang nhóm khác, từ nơi này sang nơi khác. Trao đổi làm cho dư luận xã hội có thể bị biến đổi, bị thêm bớt, bị phân hóa và có thể bị tan biến, lợi dụng.

 Tính lợi ích: Tính chất này nói tới bản chất, nội dung và ý nghĩa của dư luận xã hội. Dư luận xã hội chỉ hình thành khi vấn đề đó động chạm đến lợi ích được chia sẻ của các nhóm lớn trong xã hội. Dư luận xã phản ảnh lợi ích của cá nhân, nhóm xã hội. Dư luận xã hội đồng thời là một hình thức, cách thức, hình thức, phương tiện, công cụ bảo vệ lợi ích của nhóm người trong xã hội. Lợi ích trong dư luận xã hội được hiểu bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong đời sống xã hội có mối liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của nhóm lớn trong xã hội. Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề đang diễn ra động chạm đến hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội, các phong tục quán, khuôn mẫu hành vi của cộng đồng, quốc gia.

 Tính lan truyền: Quá trình hình thành dư luận bao giờ cũng bắt đầu từ ý kiến ra một vài cá nhân, lan truyền trong phạm vi nhóm nhỏ, rồi tiếp tục lan truyền trong nhóm lớn. Vì vậy có thể hiểu, dư luận xã hội được coi như một biểu hiện của hành vi tập thể, sự đánh giá, phán xét của nhóm lớn trong xã hội. Cơ sở của bất kỳ hành vi tập thể nào cũng hiệu ứng phản xạ quay vòng gây nên chuỗi kích thích, hiệu ứng nhóm lớn.

 Tính thống nhất và mâu thuẫn: Dư luận xã hội là tập hợp các luồng ý kiến, các loại trạng thái các xu hướng hành động khác nhau, mâu thuẫn nhau hoặc đối nhau của các nhóm xã hội. Ví dụ, có thể tìm thấy trong bất kỳ một dư luận xã hội nào các luồng ý kiến đồng tình và phản đối, quan tâm và thờ ơ, yêu - ghét và giữa hai luồng ý kiến mâu thuẫn này là luống ý kiên trung gian, “ba phải, trung dung.

Ngoài ra, Dư luận xã hội có nhiều đặc điểm, tính chất khác như tính biển đổi, ví dụ dư luận xã hội có thể nhanh chóng biến đổi từ chỗ đa số phản đối sang đa số ủng hộ. Đồng thời, dư luận xã hội có tính ỳ rất lớn thể hiện ở chỗ chậm thay đổi, ví dụ dư luận xã hội về vị thế của giới, vai trò của giới.

Trên cơ sở quan niệm về tính chất của Dư luận xã hội nêu trên có thể khẳng định: với một ý đồ đi ngược lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thì các thế lực thù địch sẽ không từ bỏ một thủ đoạn nào để lợi dụng môi trường, điều kiện dân chủ, tự do ngôn luận của chế độ ta để tiến hành bịa đặt tạo ra sự lan truyền rộng rãi để phục vụ cho mưu đồ của chúng. Do vậy, khi đón nhận các thông tin trên mạng Internet, hoặc các nguồn tin khác nhau, mỗi chúng ta cần suy xét kỹ nguồn gốc, mục đích của các luồng thông tin đó?

 [1] Philippe Breton - Serge Proulx: Bùng nổ truyền thông: Sự ra đời một ý thức hệ mới, Nxb Văn hóa - Thông tin, H.1996, tr.276.

 

 

  

SỬ DỤNG DƯ LUẬN XÃ HỘI HIỆU QUẢ TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ 

Để nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý cho mỗi cán bộ, đảng viên, kịp thời ứng phó linh hoạt, đấu tranh hiệu quả các quan điểm đi ngược lại đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, thường xuyên nắm bắt dư luận xã hội là yêu cầu quan trọng, cấp bách và cần thiết. Kết quả nắm bắt dư luận xã hội là một trong những cơ sở thực tiễn quan trọng để các nhà lãnh đạo, quản lý cân nhắc trước khi ra các quyết định quản lý phù hợp và có hiệu quả.

Trong một thời gian dài, ở Việt Nam có nhiều quyết định, văn bản pháp lý được ban hành nhưng tính khả thi trên thực tế không cao. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến các văn bản, chính sách chưa đạt như mong muốn về tính khả thi trên thực là do cơ quan soạn thảo chưa chú ý hoặc chưa tiến hành điều tra dư luận để làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc ban hành các chính sách. Nắm bắt được dư luận xã hội không chỉ giúp cho các nhà lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình mà còn đem đến hiệu quả nhiều mặt về kinh tế - xã hội. Thông qua nắm bắt dư luận, các nhà quản lý biết được phản ứng của người dân trước các quyết định của các nhà quản lý có thể dự đoán được phản ứng của người dẫn để những quyết sách phù hợp, cũng như giúp người dân nhận thức thực hiện được quyền làm chủ của mình. Kết quả điều tra dư luận xã hội dùng làm thông tin đầu vào, phương tiện để định hướng dư luận

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng. đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”[1].  “Nắm bắt dư luận xã hội kịp thời được coi là phương pháp tiếp cận, tìm hiểu, lắng nghe dư luận xã hội của quần chúng nhân dân và dư luận xã hội của cán bộ, đảng viên”[2]. Mỗi người mỗi ý và có thể có nhiều ý kiến khác nhau, do vậy cần biết cách thu thập, tập trung các kiến và phân tích, so sánh để rút ra những ý kiến đúng đắn để có thể đưa ra quyết định giải quyết vấn đề. Phương pháp nắm bắt dư luận xã hội gồm các bước cụ thể như sau: 1) Thu thập các loại ý kiến của các tầng lớp xã hội khác nhau về những vấn đề nhất định; 2) So sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các loại ý kiến thu được; 3) Phát hiện ra mâu thuẫn trong các ý kiến, phân biệt cái đúng và cái sai trong các ý kiến, lựa chọn ý kiến đúng trong số các ý kiến đã có; 4) Đem ý kiến đúng đã được lựa chọn cho người dân bàn bạc, so sánh và giải quyết vẫn đề. Chỉ nắm bắt được dư luận xã thì vẫn chưa đủ, mà quan trọng là phải làm cho dân giác ngộ và tham gia bày tỏ ý kiến, bàn bạc, lựa chọn, quyết định, thực hiện.

Trên thực tế, phương pháp nắm bắt dư luận xã hội có thể được thực hiện thông qua việc tiếp xúc, gặp gỡ và hỏi chuyện các cá nhân có liên quan. Trong trường hợp này, tốt nhất là nên tìm gặp những người thạo tin, những “thủ lĩnh dư luận xã hội" ở cơ quan, tổ chức, cộng đồng. Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, việc nắm bắt thông tin có thể được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả thông qua việc tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng như: nghe đài, xem tivi, đọc báo chí và lướt mạng, truy cập các trang tin và tìm thông tin đại chúng. Tuy nhiên, phương pháp này cũng không phải dễ dàng bởi có quá nhiều thông tin đại chúng để có thể tìm chọn được thông tin cần thiết.

Trong giai đoạn hiện nay, tận dụng thành tựu phát triển của công nghệ 4.0, các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều chiêu bài khác nhau, đặc biệt là lợi dụng những ưu thế của mạng xã hội để chống phá. Các đối tượng thù địch rêu rao về "thanh trừng, đấu đá nội bộ trong Đảng". Khi chúng ta kiên quyết đấu tranh với tệ “tham nhũng”, xử lý các cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao trong lực lượng vũ trang có vi phạm pháp luật nhằm giữ nghiêm kỷ cương, không ngừng làm trong sạch bộ máy thì các phần tử phản động, chống đối chính trị lại rêu rao rằng: "đang có cuộc thanh trừng, đấu đá nội bộ trong Đảng", "cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh". Chúng âm mưu làm xói mòn lý tưởng cách mạng, xúi bẩy lực lượng vũ trang từ bỏ trách nhiệm bảo vệ Nhà nước và chế độ…

Vì vậy, trước tình hình thực tiễn phức tạp hiện nay, cán bộ, đảng viên nói chung, người lãnh đạo, quản lý trong bộ máy quản lý Nhà nước nói riêng cần phải nắm bắt dư luận xã hội kịp thời, sàng lọc chính xác, sử dụng hiệu quả dư luận xã hội có lợi cho Đảng, Nhà nước và quân đội là quan trọng, cấp bách và cần thiết.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, E5, tr.326..

[2] Lê Ngọc Hùng: Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và phương pháp tiếp cận dư luận xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 11 (6), 2006, tr.27-31

 



CHỨC NĂNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI –
HOẠT ĐỘNG LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ CẦN ĐẶC BIỆT COI TRỌNG

Dư luận xã hội là một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, là một dạng tồn tại đặc biệt của ý thức xã hội, có thể hiện diện trong các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Hầu hết các nhà nghiên cứu Mác xít đều nhất trí cho rằng dư luận xã hội là một hình thức biểu hiện của trạng thái ý thức xã hội. Đây là trạng thái toàn vẹn bao quát trong nội dung của mình cả mặt trí tuệ, mặt tình cảm và cả mặt ý chí của ý thức xã hội. Nó không chỉ thể hiện ở một mặt riêng rẽ nào đó của hình thái ý thức xã hội như triết học, đạo đức, ý thức chính trị mà thể hiện tính chất tổng hợp của ý thức xã hội trong một thời gian nhất định, bao gồm các mặt ý thức hệ và tâm lý xã hội.Dư luận xã hội là một hiện tượng tinh thần của xã hội nhưng lại gắn chặt với hoạt động thực tiễn của xã hội như một cầu nối giữa cộng đồng xã hội đi từ phần đánh giá chung tới lập trường, hành động, kiến nghị chung và tuỳ theo điều kiện và chuyển hoá từ lời nói đến hành động. Những phán xét, đánh giá, bình phẩm của nhóm xã hội giống như một con dao hai lưỡi, nó có thể khuyến khích, cổ vũ cái đúng, cái mới, cái tốt đẹp, lên án cái lạc hậu, cái không phù hợp với lợi ích của xã hội nhưng nó cũng chứa đựng và xúi dục cái lạc hậu. Do vậy không thể để cho dư luận xã hội tự phát tán hoành hành và phải biết hướng dẫn dư luận xã hội. Giữa thời khắc quan trọng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cả Hệ thống chính trị đã đang và tiếp tục bám sát mọi diễn biến của đại dịch COVID-19, gồng mình theo dõi từng bước biến thể của nó nhằm ngăn chặn sự lây lan, đẩy lùi mọi nguy cơ; đồng thời thực hiện “mục tiêu kép” – Vừa phòng, chống dịch bệnh vừa phát triển kinh tế thì nhiều kẻ tự cho mình là “yêu nước”, ”thương nòi” , lợi dụng chức năng tốt đẹp của dư luận xã hội làm phương tiện chống lại Đảng, chống lại Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, mà cụ thể trước mắt là gây rối loạn trong nhân dân. Vậy, chúng ta cần hiểu thêm công cụ này – Đó là Chức năng của dư luận xã hội.

Dư luận xã hội xuất hiện để thỏa mãn một số nhu cầu quan trọng của xã hội. Trong số đó có các nhu cầu thông tin, giao tiếp, đặc biệt là nhu cầu kiểm soát xã hội, điều chỉnh hành vi, định hướng hoạt động và bày tỏ thái độ, tình cảm của con người. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra nhiều chức năng của dư luận xã hội như: chức năng nhận thức, giáo dục tư tưởng, kiểm soát, quản lý, dự báo, v.v.. Có thể tóm tắt một số chức năng cơ bản như sau:

* Chức năng nhận thức: Dư luận xã hội có chức năng phản ánh thực tại xã hội với các hiện tượng, sự kiện, vấn đề, quá trình xã hội. Xã hội có nhu cầu nhận biết và dư luận xã hội có chức năng đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết về sự vật, hiện tượng xảy ra. Nhờ chức năng này mà chỉ cần lắng nghe dư luận xã hội là có thể biết được chuyện gì, vấn đề gì đang được xã hội quan quan tâm, chú ý, bàn luận. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra mức độ phổ biến cao của dư luận xã hội là sự ủng hộ nhất trí của các thành viên đối với dư luận, việc các nhóm xã hội tự nguyện chấp hành đều là những bằng chứng khi nói về chức năng nhận thức mà dư luận xã hội mang lại đối với các nhóm xã hội. Tuy nhiên, cần lưu ý, sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể đúng và cũng có thể sai. Trên thực tế, dù dư luận có đúng đến mấy thì dư luận xã hội cũng có những hạn chế nhất định, vì vậy trong quá trình lãnh đạo, quản lý không nên tuyệt đối hóa nhận thức của dư luận. Chân lý của dư luận không phụ thuộc vào mức độ, tính chất phổ biến của nó. Không phải trong trường hợp nào, dư luận của đại đa số cũng đúng hơn, có lý hơn khi so sánh với dư luận của nhóm thiểu số.

* Chức năng định hướng và điều chỉnh hành vi: Chức năng này gắn liền với chức năng kiểm soát hành vi của con người trong xã hội. Dư luận xã hội khi đã hình thành là kết quả biểu thị thái độ của nhóm lớn trong xã hội, là thể hiện quan điểm, thể (dấu ấn cá nhân không còn) nên nó có vai trò hết sức quan trọng trong định hướng và điều chỉnh hành vi của các nhóm trong xã hội. Trong lịch sử phát triển xã hội của loài người, ngay cả khi xã hội chưa được phân chia thành các giai cấp thì dư luận xã hội đã thể hiện được vai trò điều chỉnh các hành vi cá nhân và nhóm. Dư luận xã hội được các nhà quản lý dùng như một công cụ để quản lý cộng đồng buổi bình minh của lịch sử loài người.

Dư luận xã hội luôn tìm cách hướng đến các cá nhân và nhóm thực hiện những khuôn mẫu hành vi được phép và định hướng ngăn cản những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Dư luận xã hội cổ vũ khích lệ những hành vi phù hợp với các giá trị chuẩn mực, đồng thời lên án, trừng phạt những hành vi vi phạm chuẩn mực xã hội để từ đó hướng đến điều chỉnh những hành vi của cá nhân và nhóm sao cho phù hợp với các giá trị, chuẩn mực chung của xã hội. Mặt khác, dư luận xã hội tác động tới việc xây dựng nhân cách của con người thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân. Sự đánh giá, phán xét của dự luận xã hội thường dựa trên các giá trị, chuẩn mực hiện tồn. Chẳng hạn, dư luận xã hội kiểu trọng nam, khinh nữ luôn đề cao giá trị con trai nên đã định hướng cho nhiều cặp vợ chồng sinh con trai. Nhưng nhờ dư luận xã hội về trao quyền và bình đẳng giới, định hướng giá trị coi con gái cũng như con trai nên đã điều chỉnh hành vi kế hoạch hóa gia đình của các cặp vợ chồng, cụ thể là không lựa chọn thai nhi theo giới tính.

* Chức năng giải tỏa tâm lý - xã hội: Dư luận xã hội luôn phản ánh tâm tư, nguyện vọng và tình cảm của các cá nhân trong cộng đồng. Dư luận xã hội là diễn đàn, là cơ hội để các cá nhân được bày tỏ, chia sẻ quan điểm, ý kiến của mình trước các vấn đề chung của quốc gia. Đồng thời cũng là cầu nối để bày tỏ tình cảm, giải tỏa tâm lý - xã hội giảm bớt được các căng thẳng, xung đột trước các vấn đề xã hội.

* Chức năng tư vấn và giám sát: Bản chất của dư luận xã hội bao hàm những lời khuyên cho các cơ quan chức năng về cách thức, phương pháp giải quyết các vấn đề mà dư luận đề cập. Dư luận xã hội được coi như một kênh tư vấn quan trọng từ người dân đến với Chính phủ để góp phần hoàn thiện, thực thi chính sách và pháp luật. Dư luận xã hội được nhìn nhận là cơ hội để công chúng thể hiện những ý kiến của mình về những vấn đề chung của cộng đồng xã hội. Trên thực tế, chúng ta thấy tâm trạng xã hội căng thẳng, bức xúc của các nhóm đều không có lợi cho công tác điều hành, quản lý đất nước.

Đối với nhiều trường hợp cụ thể việc hành động theo dư luận xã hội sẽ tạo cho họ cảm giác an toàn không bị cô lập về xã hội, tạo được những đồng thuận cao trong hội. Thông qua dư luận xã hội, họ phán xét đánh giá về các chủ trương, chính sách lớn của đất nước và hoạt động cụ thể của bộ máy chính quyền. Đặc biệt, thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các nhóm xã hội chất vấn hoạt động của các cơ quan công quyền. Dư luận xã hội học thực hiện chức năng kiểm soát, kiểm tra không chính thức bộ máy nhà nước và cán bộ lãnh đạo cao cấp, giám sát hoạt động của họ có phù hợp với lợi ích tập thể hay không và phát hiện ra những vấn đề để kịp thời tư vấn các cơ quan chức năng thực hiện tốt nhiệm vụ.

Với bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thông qua dư luận xã hội, Đảng và Nhà nước lắng nghe ý kiến, tâm tư nguyện vọng của công dân, coi đây cũng là một kênh qua trọng để xây dựng, điều chỉnh, sửa đổi đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn yêu cầu phát triển của đất nước. Đảng, Chính phủ luôn tạo điều kiện để người dân góp ý vào các Văn kiện của Đảng, bản dự thảo Luật, Hiến pháp của đất nước.