Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

CẢNH GIÁC TRƯỚC CÁC LUẬT ĐIỆU XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ TÔN GIÁO VIỆT NAM

 

Mới đây, Ban Tôn giáo Chính phủ và các cơ quan Trung ương và địa phương đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến của nhân dân về dự thảo thay thế Nghị định số 162/2017/NĐ-CP và Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngay sau đó các thế lực thù địch đã đăng tải nhiều bài viết trên các trang mạng xã hội xuyên tạc về chính sách tôn giáo của Việt Nam. Chúng cho rằng, việc hội thảo lấy ý kiến nhân dân hai dự thảo về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo lần này là một bước lùi về chính sách tôn giáo Việt Nam, với các điều khoản mà dự thảo đưa ra đã bóp nghẹt quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, bởi mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo mà dự thảo nghị định quy định là quá cao, rất khắt khe gây khó khăn cho việc sinh hoạt của các tổ chức tín ngưỡng tôn giáo. Thậm chí trên trên trang RFA, có bài viết cho rằng, Việt Nam là nước có truyền thống đàn áp tôn giáo, lần dự thảo này chỉ là cái cớ để gia tăng việc đàn áp tôn giáo tại Việt Nam. Còn bài viết trên trang VOA thì cho rằng: “Bản dự thảo lần này sắp được ban hành thì lại càng vi phạm nghiêm trọng hơn về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam; không chỉ riêng hai bản dự thảo nêu trên, mà trong tất cả các văn bản luật về tín ngưỡng - tôn giáo khác đều thể hiện sự hà khắc, kìm kẹp của Chính phủ Việt Nam đối với các hoạt động tôn giáo; Nhà nước Việt Nam luôn tìm mọi biện pháp để thâu tóm tôn giáo một cách triệt để”. Do đó, những tổ chức tôn giáo độc lập không chịu sự kiểm soát luôn bị coi là “cái gai” trong mắt chính quyền. Họ luôn tìm mọi cách tiến công, đàn áp để giải thể các tổ chức tôn giáo này... Điển hình như vụ các tín đồ tôn giáo sắc tộc ở Tây Nguyên theo đạo Tin Lành không được chấp thuận khi đăng ký nhóm họp cầu nguyện tại gia; hay là vụ xoá bỏ hoàn toàn đạo Hà Mòn trên toàn lãnh thổ Việt Nam…và nhiều vụ bắt bớ trái pháp luật khác.
Thực chất, đây chỉ là thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, chống phá quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng dẫn đến tình trạng mất ổn định về chính trị, hòng gây ra biểu tình, bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN và làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162 thể hiện chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và các quyền con người theo Hiến pháp 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, được dư luận xã hội và các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực; thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động, sinh hoạt tôn giáo; chức sắc, tín đồ các tôn giáo phấn khởi, tích cực tham gia xây dựng, phát triển đất nước.
Việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo nghị định thay thế cho Nghị định 162 là theo nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhằm tiếp tục thể chế hóa đầy đủ, kịp thời quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo đảm quy định chi tiết, đầy đủ, cụ thể và khả thi các điều khoản của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để thi hành có hiệu quả trong thực tiễn.
Đồng thời, nhằm khuyến cáo, cảnh báo để mọi tổ chức, cá nhân khi thực hiện các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo biết tôn trọng pháp luật, biết giới hạn để không vi phạm; nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo hoàn toàn không nhằm mục đích tìm cách thu tiền phạt của tổ chức, cá nhân tôn giáo. Việc sửa đổi lần này còn nhằm bổ sung, thay thế một số khó khăn, vướng mắc còn tồn tại để phù hợp hơn với thực tiễn đời sống và đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện hành, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng chính đáng của chức sắc, chức việc, tín đồ các tổ chức tôn giáo và người dân; kiên quyết đấu tranh, xử lý các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và đời sống Nhân dân.
Như vậy có thể thấy rằng, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nêu trên đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; vì vậy, mọi công dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần cảnh giác, không mơ hồ, ảo tưởng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bác bỏ những luận điều sai trái nhằm chống phá quyền tự do tín ngưỡng về tôn giáo của Việt Nam của các thế lực thù địch; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thành quả cách mạng; bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân./.
ST
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản
Thích
Bình luận
Chia sẻ

Luận điệu sai trái, xuyên tạc của “Việt Tân” về phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.


 Hiện nay, “Việt Tân” cùng một số đối tượng xấu đang cố đổ lỗi cho rằng tham nhũng ở Việt Nam là do thể chế chính trị một đảng gây ra. Cùng với đó là những kiểu lập luận “dây cà ra dây muống” để vu khống Việt Nam không có tự do, dân chủ, nhân quyền. Tất cả những điều này là hết sức phi lý. Tại Việt Nam, quyền tự do luôn được tôn trọng theo đúng quy định của pháp luật. Thậm chí, nước ta còn có

CHỈ LÀ ÂM MƯU HẠ THẤP DANH DỰ, UY TÍN CỦA VIỆT NAM


Ngày 2/8, trang web Đại sứ quán Cộng hòa Séc tại Việt Nam đã ra thông báo dừng công nhận mẫu hộ chiếu mới của Việt Nam. Ngay lập tức, trên một số trang mạng xã hội, các đối tượng xấu, thiếu thiện chí đã đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin, luận điệu mang tính suy diễn, xuyên tạc, công kích, miệt thị nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
Chúng cho rằng: “Hộ chiếu Việt Nam thuộc hàng “tủi thân” trên thế giới”; “thứ hạng của hộ chiếu Việt Nam bị coi là thấp, thể hiện qua “năng lực di chuyển, nhập cảnh”; “quyền lực của hộ chiếu thể hiện quyền lực của dân tộc”…
Theo Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam được cấp theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và đạt tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là tiêu chuẩn của ICAO (Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế).
Thực tế, trong vấn đề hộ chiếu, cần phải có cách nhìn nhận đầy đủ, khách quan. Ngay cả bảng xếp hạng quyền lực hộ chiếu của Henley & Partners cũng mới chủ yếu dựa trên cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Vận tải Hàng không quốc tế (IATA), với tiêu chuẩn về số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ mà công dân mỗi nước có thể dùng hộ chiếu đi vào mà không cần xin visa trước. Với căn cứ đó, mỗi nước tùy vào điều kiện cụ thể để đưa ra quy định có thể tăng hay giới hạn độ mở của hộ chiếu, cho phép công dân đi đến bao nhiêu quốc gia mà không cần visa. Đây thực ra chỉ là một thủ tục chứ không có gì ghê gớm để nói “quyền lực hộ chiếu” hay “sức mạnh dân tộc”, không thể chỉ vì một vài chi tiết về kỹ thuật chưa tương thích mà đã có thể đánh giá “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”…
Hơn nữa, không thể nói rằng, hộ chiếu đi được nhiều quốc gia thì nước đó văn minh, quyền lực hơn nước có hộ chiếu đến được ít quốc gia hơn. Việt Nam là một đất nước đã có hàng nghìn năm văn hiến, dựng nước và giữ nước. Một dân tộc bất khuất, kiên cường, oanh liệt trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được cộng đồng thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia trên thế giới thuộc tất cả các châu lục, thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc…
Bởi vậy, đừng chỉ dựa vào một vài tiêu chí kỹ thuật chưa tương thích liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam mà cố tình miệt thị, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam. Những luận điệu trên chỉ là ý kiến của một số người thiếu thiện chí, định kiến, hằn học trước sự phát triển của Việt Nam mà thôi.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

 


Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền không phải mới. Dẫu vậy, việc chọn lựa mô hình cụ thể nào, tổ chức quyền lực ra sao thì không có mẫu số chung nhất định. Trải qua quá trình triển khai xây dựng, kiện toàn mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đâu đó xuất hiện một số ý kiến cho rằng, phải từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa mới có thể xây dựng Nhà nước pháp quyền. Sự thực thì…

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA “VŨ KHÍ TỐT MÀ TINH THẦN HÈN, THÌ CŨNG VÔ DỤNG”

 

Câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Máy bay “phản lực” phản Mỹ”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 2135,  ngày 04 tháng 8 năm 1952.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt; với sự giúp sức của các đồng minh, thực dân Pháp tập trung huy động và đưa vào chiến trường Đông Dương các loại vũ khí trang bị hiện đại nhằm cứu vãn tình thế bất lợi đối với quân đội Pháp đang diễn ra trên chiến trường. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra đối với Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải xây dựng và phát huy tốt nhân tố chính trị, tinh thần cho quân và dân ta, quyết tâm đánh thắng thực dân Pháp xâm lược.

Lênin đã chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”[1]. Tuy nhiên, nhân tố chính trị, tinh thần không phải tự nhiên mà có, nó là sản phẩm của truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, của tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, hình thành từ nhận thức sâu sắc về tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố chính trị, tinh thần đã góp phần làm chuyển hóa lực lượng, tạo thế và lực, kết nối tất cả các nguồn lực, các nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân và dân ta, là sức mạnh của cả dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại làm nên một Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đặc biệt, thực hiện phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, cùng với việc huấn luyện làm chủ các loại vũ khí, trang bị hiện đại, cần phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần; giáo dục, rèn luyện cho bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và quan điểm “vũ khí luận”, tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí, coi nhẹ sức mạnh nhân tố chính trị tinh thần./.


CẢNH GIÁC VỚI SỰ BIẾN TƯỚNG CỦA TÀ ĐẠO BIẾN TƯỚNG TRÊN MẠNG

 


Thời gian qua, một số đối tượng xấu gia tăng hành vi tuyên truyền tà đạo, lôi kéo người dân tham gia hoạt động tâm linh mờ ám, phi pháp trên không gian mạng. Nếu không tỉnh táo, cảnh giác, người dân sẽ dễ bị lôi kéo tham gia vào các hoạt động tôn giáo trái pháp luật và có thể gánh chịu những hậu quả khó lường.

FREEDOM HOUSE – “SỰ THẬT” DỰA TRÊN SỰ DỐI TRÁ


Mới đây, tổ chức Freedom House công bố một nghiên cứu với tên gọi: “Báo cáo bảo vệ nền dân chủ khi sống lưu vong”. Trong báo cáo này, Freedom House cho rằng, Việt Nam là một trong số các nước thực hiện đàn áp xuyên quốc gia nhằm bịt miệng người đấu tranh bằng các hình thức như: đe dọa giết và đánh đập người “hoạt động dân chủ” tiến công mạng vào các tổ chức xã hội dân sự và cá nhân ở nước ngoài ngay cả khi họ đang sống lưu vong...
Phương pháp nghiên cứu được Freedom House dùng làm cơ sở để đưa ra kết luận cho hàng loạt báo cáo về tình hình nhân quyền của rất nhiều nước, trong đó có Việt Nam là phỏng vấn và suy luận. Họ tiến hành phỏng vấn những người họ cho là “nạn nhân của chính quyền Việt Nam” hay “các tù nhân lương tâm” người Việt liên quan đến chính trị đang sống lưu vong, nghe những người này nói và sau đó đưa ra kết luận. Vậy thì dưới bất cứ góc độ nào, những báo cáo này cũng không khách quan, không sát thực tế và không đáng tin cậy.
Trên thực tế, Việt Nam đã có bước tiến rất dài trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của phần lớn người dân. Liên Hợp Quốc đã đưa Việt Nam vào nhóm các nước có chỉ số phát triển con người ở mức cao trên thế giới năm 2020, xếp 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam là một trong những quốc gia về đích sớm nhất trong nhiều “Mục tiêu thiên niên kỷ” của Liên Hợp Quốc và đang không ngừng củng cố các “Mục tiêu phát triển bền vững”. Việt Nam đã luôn đảm bảo các quyền cơ bản, quyền được tiếp cận các cơ hội phát triển cho mọi người dân, đặc biệt là người dân ở các địa phương khó khăn, vùng sâu vùng xa như Tây Nguyên, Trung du miền núi Bắc Bộ.
Ngoài ra, tính tới tháng 6/2021, số lượng người dùng Internet ở Việt Nam đã là gần 70 triệu người (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng MXH là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Mỗi người dùng MXH ở Việt Nam trung bình mất hơn 6 tiếng mỗi ngày cho các hoạt động giao tiếp trên mạng. Vậy mà Freedom House lại tuyên bố, người dân Việt Nam không được dùng Internet.
Khi đặt các cáo buộc trong báo cáo của Freedom House cạnh các số liệu được tính toán khoa học và chi tiết từ các tổ chức thống kê có uy tín trên thế giới thì sẽ thấy rõ luận điệu “Việt Nam ngăn chặn quyền tiếp nhận trao đổi thông tin và tự do ngôn luận”, “Việt Nam đàn áp những người đấu tranh cho dân chủ” của Freedom House là hết sức lố bịch. Mỗi quốc gia có bản sắc, bản chất và đặc trưng riêng, do đó có cách thức quản lí nhà nước khác nhau sao cho hiệu quả, miễn sao mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, việc áp đặt giá trị của nước này lên nước khác để đánh giá, hạ thấp là hành vi không thể chấp nhận và Freedom House cần phải dừng lại.
ST
Có thể là hình ảnh về bầu trời và văn bản
2

BÀI HỌC TỪ SỰ SỤP ĐỎ CỦA LIÊN XÔ


Liên Xô, Đông Âu tan xã, sụp đổ hơn 30 năm, nhưng đến nay có nhiều người chưa nhận biết đầy đủ nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp xảy ra cơn chấn động địa chính trị đau đớn nhất loài người. Mỹ và phương Tây đã tấn công lịch sử, giáo dục biến những người cộng sản thành công cụ lật đổ chế độ XHCN ở Liên Xô, Đông Âu.

Sri Lanka có đang tạo điều kiện cho Mỹ – Trung – Ấn cạnh tranh?


Một vấn đề khác cần phải bàn tới trong bối cảnh khủng hoảng chính trị hiện tại, đó là việc vỡ nợ không chỉ tạo ra khoảng trống nguy hiểm trong nội bộ Sri Lanka mà còn có thể khiến cạnh tranh địa chính trị Nam Á thêm khốc liệt. Nằm ở vị trí chiến lược tại khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương, Sri Lanka

Toan tính của Trung Quốc trước khủng hoảng tại Sri Lanka

 


Vấn đề lớn nhất mà Sri Lanka đang đối mặt là món nợ nước ngoài quá lớn, trong đó chỉ tính riêng khoản nợ Trung Quốc là hơn 8 tỉ USD. Theo báo cáo của Quỹ châu Âu nghiên cứu Nam Á (EFSAS), Sri Lanka trong những năm qua đã dốc hầu bao cho các dự án xây dựng với các khoản vay từ Trung Quốc. Tuy

Lời cảnh báo khẩn cấp từ cuộc khủng hoảng Sri Lanka

 


Việc Sri Lanka vỡ nợ như một lời cảnh báo khẩn cấp đến nhiều quốc gia, từ tình hình kinh tế đến quan hệ ngoại giao và cả những cuộc tranh giành quyền lực “căng thẳng” nhất trên thế giới.

NHẬN THỨC PHIẾN DIỆN, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

 

Sứ mệnh lịch sử (SMLS) toàn thế giới của giai cấp công nhân (GCCN) hiện đại là phát kiến vĩ đại của C.Mác. Bằng cái nhìn duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng về sứ mệnh của GCCN trong toàn bộ học thuyết của mình, song tập trung nhất là ở lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, có đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN. Góp phần phê phán các nhận thức này và bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác là nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay. 

Nhận thức phiến diện, luận điệu xuyên tạc

Giải phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại thoát khỏi bóc lột, áp bức, bất công để mọi người và mỗi người được sống trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do. Những khát vọng cao đẹp ấy của nhân loại đã có từ bao đời. Nhưng chỉ đến thế kỷ 19, khi xuất hiện nền đại công nghiệp và cùng với đó là sự trưởng thành của GCCN và chính đảng của nó thì những cơ sở thực tiễn để hiện thực hóa khát vọng ấy mới xuất hiện đầy đủ. 

CNXH khoa học đã làm rõ những tất yếu, quy luật cùng những điều kiện, lực lượng, động lực, lộ trình để thực hiện SMLS của GCCN. Xã hội hóa trong sản xuất kinh tế và dân chủ hóa trong đời sống chính trị-xã hội là những tiền đề của CNXH do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) tạo ra. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của CNXH là nền sản xuất phát triển cao được xây dựng trên cơ sở xác lập chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là một tất yếu xuất phát từ yêu cầu xã hội hóa của sản xuất công nghiệp, được thực hiện thông qua tự giác thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lý luận về SMLS của GCCN là cốt lõi của lý luận về CNXH khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, nhiều đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN với ý đồ không lành mạnh.

Có ý kiến cho rằng, “GCCN trên thế giới hiện nay không khác mấy GCCN của những năm 70 của thế kỷ 20”; đó chỉ là những nhóm người “trực tiếp lao động sản xuất của cải vật chất trong công nghiệp”, “trong xã hội hiện đại, công nhân đang ít đi và không chiếm đa số trong lao động”. Một nhận thức phiến diện khác cho rằng, hiện nay, vị thế của công nhân ở nhiều nước không có gì khác so với thế kỷ 19-tức là công nhân “làm thuê, không có quyền định đoạt sản xuất và phân phối”... Hoặc cũng có nhận xét rằng “hiện nay trên thế giới không thấy phong trào công nhân, chỉ thấy các phong trào xã hội”. Bên cạnh đó, một số người cho rằng, hiện nay, “SMLS của GCCN chỉ còn được tiếp tục ở một vài nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”...

 

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện đại, vấn đề SMLS của GCCN là trọng điểm đấu tranh của cả GCCN và giai cấp tư sản, CNXH và CNTB cùng nhiều sắc thái chính trị-xã hội khác nhau. Họ biết rõ rằng, SMLS của GCCN là cốt lõi của CNXH khoa học và phủ nhận được sứ mệnh này là phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN và đảng cộng sản. Gần đây, trong xu thế phát triển của thế giới với trình độ kinh tế tri thức và hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, cũng có ý kiến cho rằng, “trong kinh tế tri thức thì SMLS là của trí thức chứ không phải của công nhân”. Đây là một nhận thức không đầy đủ.

Những phân tích sau đây có thể góp phần làm rõ hơn nhận thức liên quan đến vấn đề trí thức và SMLS của GCCN trong thời đại ngày nay.

Trí thức có vai trò rất quan trọng nhưng không thể thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Thứ nhất, cho dù tri thức, kiến thức khoa học có vai trò to lớn, nhưng phát triển hiện đại không vì thế mà không cần đến sản phẩm vật chất để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của mình (chẳng hạn ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, xây dựng, chữa bệnh...). Tất cả nhu cầu ấy lại chỉ có thể được thỏa mãn thông qua sản xuất vật chất và thường là thông qua sản xuất công nghiệp. Chỉ có sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp mới có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của gần 8 tỷ người trên thế giới hiện nay. Vì vậy, nhân loại hiện nay vẫn cần tới sản xuất vật chất và lao động của GCCN để tồn tại và phát triển.

Thứ hai, GCCN hiện đại đang được trí thức hóa, trí tuệ hóa trong các cuộc cách mạng công nghiệp. Yêu cầu khách quan của sản xuất, dịch vụ hiện đại và vận hành nền sản xuất công nghiệp hiện đại đòi hỏi GCCN không ngừng nâng cao năng lực lao động, làm chủ khoa học và công nghệ. Hiện nay, khoảng 40% công nhân của các nước G7 có trình độ đại học. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (năm 2002), gần 70% công nhân Nhật Bản có trình độ đại học. Với trình độ như vậy, trên thực tế, người ta dùng khái niệm công nhân-trí thức để chỉ nhóm lao động trình độ cao này. Thế nên, quan niệm công nhân “là người lao động thừa hành, trình độ học vấn thấp” đã lạc hậu và bất cập với thực tế.

Thứ ba, SMLS của GCCN tự nó đã mang một hàm lượng tri thức rất lớn và bản thân GCCN cũng đang trí tuệ hóa, đang tạo ra một lớp trí thức-công nhân trong lực lượng lao động của mình. Họ là các chuyên gia, nhà khoa học và công nghệ đang hằng ngày hoàn thiện, phát triển để tăng năng suất lao động, bảo đảm các yêu cầu ngày càng cao về kinh tế-xã hội và môi trường. Xã hội gọi nhóm lao động này là trí thức-công nhân hay nguồn nhân lực trình độ cao. Theo đó, cả về lý luận và thực tiễn, SMLS của GCCN không xa lạ gì với tri thức, trí thức, khoa học hiện đại. Việc tách rời tri thức với quá trình thực hiện SMLS của GCCN là một cái nhìn phiến diện.

Thứ tư, trí thức là nhóm lao động sản xuất ra các giá trị tinh thần; còn công nhân là nhóm lao động sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất, các quá trình kinh tế xét đến cùng, bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất. Tri thức và lao động của họ, có vai trò rất quan trọng trong phát triển hiện đại nhưng bao giờ cũng cần đến việc chuyển hóa những giá trị tinh thần đó vào thực tiễn. Những công thức, ý tưởng sáng tạo, phần mềm (software) hay nói chung là phát kiến khoa học đều cần tới công nghệ để thể hiện ra giá trị của mình. Trên thực tế, nhiều sản phẩm tinh thần chỉ có thể bộc lộ giá trị thông qua việc hóa thân vào những ứng dụng công nghệ. Khoa học cần công nghệ để thể hiện ra, công nghệ cần khoa học để tiến hóa. Hai quá trình thực tiễn này hiện nay đã gần gũi lại trong một lĩnh vực hoạt động mà hiện nay thường gọi là “cách mạng khoa học và công nghệ”. Thông qua thực tiễn đó có thể nhận định: Sản xuất vật chất là cái quyết định, sản xuất tinh thần là để phục vụ cho quá trình tồn tại của xã hội. Sáng tạo tinh thần như khoa học, văn hóa, nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong phát triển xã hội hiện đại, nhưng nếu chỉ tinh thần thôi thì chưa đủ nền tảng cho phát triển bền vững của xã hội loài người.

Thứ năm, SMLS thực chất là sự nghiệp của một giai cấp đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo xã hội xây dựng một hình thái kinh tế-xã hội mới. Để làm tròn trách nhiệm ấy, đòi hỏi giai cấp có SMLS phải đạt được những yêu cầu, đặc điểm riêng. Điều đó tập trung ở 4 nội dung: Phải là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ xã hội, bao gồm cả về kinh tế (xu thế phát triển sản xuất) và chính trị (đại diện cho xu thế dân chủ hóa); phải là đại diện cho lợi ích chung của xã hội, các giai tầng và cả dân tộc; phải có một hệ tư tưởng riêng vừa phản ánh nhận thức về quy luật vận động đương thời, vừa thể hiện tính tiền phong về lý luận; phải có kết cấu, tổ chức chặt chẽ với một hạt nhân là chính đảng của giai cấp...

Một giai cấp muốn đảm nhận sứ mệnh xác lập một hình thái kinh tế-xã hội mới, nhất thiết phải đáp ứng các điều kiện trên. Đội ngũ trí thức không hội đủ các điều kiện ấy. Ngộ nhận về sự tăng lên của vai trò trí thức trong phát triển hiện đại đôi khi khiến người ta lãng quên những mối quan hệ, các đặc điểm và vị thế của trí thức trong tồn tại xã hội. Trí thức có công khái quát những tri thức lý luận và nâng cao trình độ nhận thức của phong trào công nhân. Trí thức có thể cùng với GCCN và nhân dân làm nên lực lượng của cách mạng XHCN. Thực hiện SMLS của mình, GCCN cần đến sự hợp tác của trí thức và tự mình nâng cao tri thức, kỹ năng lao động hiện đại. Nhưng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng XHCN thì chỉ có GCCN mới đủ cơ sở, điều kiện, năng lực thực tế.

Tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Cách mạng XHCN coi việc giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công và để con người phát triển trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là mục tiêu cao nhất. Sứ mệnh hàng đầu của GCCN là bằng phương thức lao động công nghiệp để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, tốt hơn cho quá trình phát triển của nhân loại. Từ đó, họ tạo ra các tiền đề, điều kiện vật chất cho xã hội mới.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác và từ thực tiễn hiện nay, GCCN ở tất cả quốc gia với trình độ phát triển khác nhau vẫn đang tiếp tục thực hiện SMLS của mình với nhiều trình độ, cách thức khác nhau. Thậm chí, dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, hiện nay, chính GCCN ở các nước TBCN phát triển, bằng việc làm chủ khoa học và công nghệ hiện đại, bằng năng suất lao động cao lại đang đóng góp tích cực cho việc thực hiện nội dung kinh tế kỹ thuật của SMLS của GCCN. 

Có thể khẳng định rằng, SMLS toàn thế giới của GCCN là một học thuyết về giải phóng và phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây là vũ khí tư tưởng của các đảng cộng sản, của GCCN trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản và các thế lực thù địch với CNXH. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về SMLS của GCCN và qua đó, bảo vệ chế độ XHCN cần được xem là nhiệm vụ thường trực.

Ở Việt Nam, chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc rằng, thực hiện thành công sự nghiệp “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước nhanh và bền vững” để tạo ra cơ sở vật chất cho CNXH và “xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh” cần được xem là những cơ sở hiện thực, phương hướng chính để làm rõ và khẳng định SMLS của GCCN Việt Nam đối với dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam./.

PGS, TS NGUYỄN AN NINH

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh


ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC BẢO ĐẢM, ĐƯA CÔNG TÁC KỸ THUẬT ĐI VÀO CHIỀU SÂU VỮNG CHẮC


Để hoàn thành các mục tiêu trong Nghị quyết số 382-NQ/ĐUQSTW, ngày 29-11-2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới, Cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (viết tắt là TCCT) đã tham mưu, đề xuất với Đảng ủy, thủ trưởng TCCT chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp quán triệt, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với nhiều biện pháp sáng tạo, hiệu quả, bảo đảm trang bị kỹ thuật (TBKT) phục vụ công tác nghiệp vụ an ninh, tuyên truyền, cổ động, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) trong toàn quân.
Từng bước hiện đại hóa trang bị kỹ thuật
Những năm qua, TCCT tiếp nhận, cấp phát đưa vào sử dụng nhiều chủng loại TBKT thuộc các ngành xe-máy; CTĐ, CTCT; công nghệ thông tin từ các nguồn khác nhau, tổ chức điều chuyển trong nội bộ và đến các đơn vị trong toàn quân. Tổng cục cũng đã đầu tư mua sắm TBKT đặc thù thuộc các dự án của Báo Quân đội Nhân dân, Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội, Điện ảnh Quân đội nhân dân, trang bị nghiệp vụ an ninh của Cục Bảo vệ an ninh Quân đội; mua sắm và cấp phát 190 xe ô tô, 21 máy xúc, 44 máy dò mìn phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; mua sắm cải hoán và cấp phát 132 xe ô tô chuyên dùng, xe nghiệp vụ các loại...
Đặc biệt, các cơ quan, đơn vị trong TCCT tích cực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; ứng dụng các đề tài, công nghệ mới để nâng cao chất lượng bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, khai thác sử dụng và quản lý TBKT tại đơn vị, giải quyết kịp thời những khó khăn, yêu cầu bức thiết trong thực hiện nhiệm vụ.
Theo đó, những năm qua, các đơn vị: Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội; Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam; Công ty TNHH Một thành viên In Quân đội 1; Phòng Vật tư CTĐ, CTCT đã ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đưa vào thực tế quản lý, khai thác và sản xuất tại đơn vị mang lại hiệu quả thiết thực.
Nổi bật là việc cải hoán, lắp đặt trang thiết bị trên các xe truyền hình lưu động chuyển từ chuẩn SD sang chuẩn HD, nâng cao chất lượng phát sóng truyền hình trực tiếp; sử dụng máy phát điện mini đặt trên xe ô tô bán tải phục vụ đưa tin về công tác phòng, chống lụt bão tại các địa phương; lắp đặt 10 đài tiếp sóng FM của Đài Tiếng nói Việt Nam phục vụ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở quần đảo Trường Sa; cải hoán xe chiếu phim kết hợp tuyên truyền cơ động; nghiên cứu bảo đảm báo chí hằng ngày cho bộ đội đóng quân tại quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK1 qua đường truyền vệ tinh VISAT; lắp đặt bộ tự động tắt, mở nguồn tự động cho hệ thống truyền thanh nội bộ tích hợp bộ thu Đài Tiếng nói Việt Nam và bộ tự động báo hiệu lệnh, thông báo thời gian làm việc, nghỉ ngơi trong ngày, phát nhạc hành tiến trong huấn luyện...
Giữ tốt, dùng bền các loại trang bị
Để phát huy công năng của các loại TBKT, đồng thời giữ tốt, dùng bền phục vụ hiệu quả các hoạt động CTĐ, CTCT và các nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, Cục Hậu cần tham mưu với Đảng ủy, thủ trưởng TCCT xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện quy hoạch sử dụng TBKT cho các nhiệm vụ; rà soát quy hoạch sử dụng TBKT hiện có đến năm 2025 và những năm tiếp theo; thực hiện quy định phân nhóm TBKT, sử dụng đúng mục đích, đúng nhiệm vụ.
Hằng năm, đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt công tác bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, niêm cất, giám định TBKT theo chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Vì vậy, 100% TBKT được bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa theo định kỳ; hệ số kỹ thuật luôn đạt yêu cầu đề ra. Hiện nay, hệ thống kho, trạm, nhà xưởng đều được lắp đặt hệ thống giám sát an ninh, thiết bị, dụng cụ cứu hỏa nhà kho thông minh...
Cùng với đó, gắn việc quản lý TBKT, quản lý con người với quản lý công việc và nâng cao chất lượng quản lý, điều hành hoạt động công tác kỹ thuật cho các nhiệm vụ. Tổ chức tập huấn, thống nhất hệ thống văn kiện, sổ sách đăng ký, mẫu biểu quản lý của từng ngành để tránh chồng chéo, thiếu sót trong đăng ký, thống kê, báo cáo.
Thời gian tới, để nâng cao hơn nữa công tác kỹ thuật trong tình hình mới, Cục Hậu cần tiếp tục làm tốt công tác tham mưu với Đảng ủy, thủ trưởng TCCT tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy trong tổ chức thực hiện ở từng cấp, từng cơ quan, đơn vị, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế, đưa công tác kỹ thuật đi vào chiều sâu vững chắc. Đẩy mạnh huấn luyện, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nâng cao trình độ quản lý, khai thác, sử dụng, làm chủ TBKT, đặc biệt là TBKT thế hệ mới, hiện đại, có hàm lượng công nghệ cao; ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào công tác bảo đảm kỹ thuật; thường xuyên rà soát, củng cố an toàn hệ thống kho, trạm, xưởng bảo đảm an toàn tuyệt đối về mọi mặt.
Tập trung nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo ngành, từng bước đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
QĐND

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ YÊU CẦU "4 ỔN ĐỊNH, 3 TĂNG CƯỜNG, 2 ĐẨY MẠNH, 1 TIẾT GIẢM VÀ 1 KIÊN QUYẾT KHÔNG"


Với Việt Nam, nền kinh tế độ mở lớn, tới thời điểm này, kim ngạch xuất khẩu đạt 432 tỷ USD, quy mô còn hạn chế, sức chống chịu có hạn; khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi.
Ngày 3-8, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7, phiên họp được kết nối trực tuyến tới các địa phương.
Theo chương trình, phiên họp tập trung thảo luận các nội dung về tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2022, chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 chương trình mục tiêu quốc gia, tình hình giải ngân vốn đầu tư công, tình hình phòng chống dịch Covid-19…
Phát biểu khai mạc phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhận định trong tháng 7 và 7 tháng vừa qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ, ảnh hưởng mạnh đến kinh tế toàn cầu cũng như từng quốc gia. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, xung đột Nga - Ukraine vẫn kéo dài, khó đoán định. Chuỗi cung ứng, lao động, sản xuất tiếp tục đứt gãy cục bộ; giá cả nguyên vật liệu, đầu vào và giá nông sản quan trọng có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, tiềm ẩn biến động, lạm phát ở nhiều nước tăng cao kỷ lục kể từ 3-4 thập kỷ gần đây. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia, trong đó có những đối tác lớn của nước ta thay đổi chính sách theo hướng tăng lãi suất, thắt chặt tiền tệ, tài khóa. Rủi ro về tài chính, tiền tệ, nợ công và nguy cơ suy thoái kinh tế tiếp tục xu hướng gia tăng. Các tổ chức quốc tế tiếp tục điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2022.
Với Việt Nam, nền kinh tế độ mở lớn, tới thời điểm này, kim ngạch xuất khẩu đạt 432 tỷ USD, quy mô còn hạn chế, sức chống chịu có hạn; khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi.
Thủ tướng cho rằng, trong bối cảnh đó, trên đà phục hồi và tăng trưởng của 6 tháng đầu năm, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả theo các nghị quyết, kết luận, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, với sự đồng hành và giám sát của Quốc hội, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của nhân dân và doanh nghiệp, sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế. Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm tiếp tục ổn định và khởi sắc trên hầu hết các lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, 5 cân đối lớn được bảo đảm (thu - chi, xuất - nhập khẩu, lương thực - thực phẩm, năng lượng, lao động)…
Tuy vậy, nền kinh tế vẫn đối diện áp lực và nguy cơ lạm phát, vấn đề giải ngân đầu tư công, triển khai một số nhiệm vụ trong chương trình phục hồi và phát triển còn hạn chế….
Tại phiên họp, Thủ tướng yêu cầu các đại biểu thẳng thắn chỉ rõ những việc đã làm được và chưa làm được; nhận định khách quan về kết quả, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, phân tích kỹ lưỡng, mổ xẻ đầy đủ, sát thực để làm rõ những khó khăn, thách thức; bài học kinh nghiệm đánh giá, dự báo, phân tích tình hình thời gian tới trên cơ sở xác định khó khăn, thách thức nhiều hơn là cơ hội và thuận lợi.
Thủ tướng nhấn mạnh, Chính phủ tập trung vào một số nội dung thảo luận, gồm 4 ổn định, 3 tăng cường, 2 đẩy mạnh, 1 tiết giảm và 1 kiên quyết không.
Cụ thể, 4 ổn định gồm: ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn; ổn định các loại thị trường và giá cả; ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
3 tăng cường gồm: tăng cường nắm tình hình, phản ứng kịp thời, linh hoạt, hiệu quả; tăng cường hệ thống y tế, nhất là y tế dư phòng, y tế cơ sở và đặc biệt là tăng cường tiêm vaccine; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hệ thống hành chính.
2 đẩy mạnh gồm: đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển doanh nghiệp và tạo công ăn việc làm cho nhân dân; đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư công.
1 tiết giảm là tiết kiệm triệt để, giảm mọi khoản chi tiêu không cần thiết.
1 kiên quyết không là kiên quyết không điều hành giật cục, mà khoa học, hiệu quả, chắc chắn.
ST

NHỮNG THỦ ĐOẠN TIẾP TAY CHO HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO

 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi dụng bóp méo, xuyên tạc nhằm chống phá Việt Nam.

Thông qua vài trang mạng thiếu thiện chí ở hải ngoại, gần đây, một số tổ chức, cá nhân thù địch lại núp bóng “bảo vệ tự do tôn giáo” để chỉ trích rằng chính quyền Việt Nam “đàn áp tôn giáo tràn lan”; “ép buộc hàng trăm người bỏ đạo”; “phân biệt đối xử người dân theo đạo và không theo đạo”;… đòi trả tự do cho những tù nhân đang thụ án về tội lợi dụng tôn giáo chống phá Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cần phải khẳng định ngay rằng, những chỉ trích vô lối ấy dựa theo những thông tin không có cơ sở, bị bóp méo, xuyên tạc làm sai lệch bản chất vấn đề. Ở Việt Nam, trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, theo hoặc không theo tôn giáo nào là hoàn toàn do sự tự nguyện của công dân, không có chuyện chính quyền ép buộc người dân bỏ đạo. Mọi sinh hoạt của các tín đồ, chức sắc các tôn giáo được thực hiện bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam, không có chuyện chính quyền “đàn áp tôn giáo”.

Những năm qua, sinh hoạt tôn giáo của công dân Việt Nam ngày càng phát triển. Nhà thờ, đình chùa, miếu mạo… được tu sửa, tôn tạo, xây cất ngày càng nhiều. Cả nước hiện có hơn 29,6 nghìn cơ sở thờ tự. Công tác đào tạo chức sắc các tôn giáo ngày càng được mở mang. Việt Nam hiện có trên 57,4 nghìn chức sắc và trên 147 nghìn chức việc. Số lượng người dân tham gia các tôn giáo ngày càng tăng. Việt Nam hiện có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số)… Thực tế đã chứng minh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam luôn hướng tới vận động đồng bào các tôn giáo tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, hướng các chức sắc, chức việc tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo làm cho các giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng của toàn dân. Mọi công dân Việt Nam dù theo các tôn giáo khác nhau hay không theo tôn giáo nào đều bình đẳng trước pháp luật.

Tại Việt Nam hiện có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Một số nhóm tôn giáo không được chính quyền cho phép hoạt động, một số đối tượng bị các cơ quan chức năng bắt giữ, xử lý là do họ đã lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá sự nghiệp đổi mới của nhân dân Việt Nam. Hành vi của họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam và cần phải có các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn.

Cùng với tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Nhà nước Việt Nam thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân, trong đó có cả các chức sắc, tín đồ tôn giáo luôn đề cao cảnh giác, nhận diện rõ ràng và kịp thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động lợi dụng tôn giáo để chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Còn với những đối tượng đang thụ án mà một số cá nhân, tổ chức thù địch đòi trả tự do, thực chất họ là những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam chứ không vì mục đích bảo đảm quyền tự do tôn giáo. Việc đòi trả tự do cho những đối tượng ấy là hành động can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Nghị quyết Liên hợp quốc về nguyên tắc "không can thiệp vào công việc nội bộ" được thông qua năm 1965 và được ghi nhận, thể hiện trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác, đó là: "Tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia". Như vậy, hành động đòi trả tự do cho những đối tượng đang thụ án về tội lợi dụng tôn giáo như đã nêu vừa trái với pháp luật Việt Nam, vừa vi phạm nguyên tắc quan hệ quốc tế. Sự thật rất rõ ràng, chẳng lẽ một số cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam lại không hiểu được những điều ấy. Hay họ đang cố tình không hiểu vì những động cơ và mục đích đen tối: Tiếp tay cho hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam?

Theo Minh Ngọc - Baonghean.vn


ĐÁNH GIÁ PHIẾN DIỆN, THIẾU KHÁCH QUAN VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI Ở VIỆT NAM

 

Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trong mọi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm.

Đánh giá phiến diện, thiếu khách quan

Ngày 19/7 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo cáo tình hình buôn người năm 2022. Đây là báo cáo hằng năm theo Đạo luật Bảo vệ nạn nhân bị mua bán của Hoa Kỳ năm 2000 do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trình lên Quốc hội nước này, trong đó nhận xét công tác phòng, chống mua bán người của 188 quốc gia trên thế giới nhằm kêu gọi Chính phủ các nước thực hiện nghiêm túc Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung.

Trong báo cáo tình hình buôn người năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xếp Việt Nam trong nhóm 3, tụt 18 bậc so với năm 2021 (năm 2021, đánh giá Việt Nam thuộc nhóm 2) cùng với các nước như Brunei, Campuchia, Malaysia, Myanmar tại Đông Nam Á và một số nước khác như Trung Quốc, Cuba... Cũng theo báo cáo này, những nước nằm trong nhóm 3 có thể bị hạn chế nhận một số viện trợ từ Hoa Kỳ trong tương lai. Báo cáo trên có những nhận xét không khách quan, không phản ánh những nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người trong thời gian qua.

Liên quan đến vấn đề trên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng ngày 21/7 khẳng định: “Bộ Ngoại giao Mỹ ra báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người trên thế giới với các thông tin không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam”.

Không ngừng nỗ lực đấu tranh với nạn buôn người

Việc nhìn nhận, đánh giá một vấn đề cần phải dựa trên những thông tin xác thực, có các hoạt động kiểm chứng, khảo sát thực tế, nếu không sẽ đưa ra những nhận xét thiếu khách quan, phiến diện. Điều này tác động không tốt đến quan hệ ngoại giao hai nước, gây ra những hiểu lầm đáng tiếc và tạo cớ để các thế lực thù địch suy diễn, xuyên tạc về công cuộc phòng, chống tội phạm mua bán người ở Việt Nam nói riêng, công tác đảm bảo quyền con người nói chung.

Thực tế, việc phòng, chống mua bán người được Đảng, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, từ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm cũng như hỗ trợ nạn nhân. Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về phòng, chống mua bán người. Những nỗ lực, cố gắng của Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người thời gian qua là toàn diện, rõ nét. 

Tại Điều 150 và Điều 151, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Đặc biệt, Luật Phòng, chống mua bán người được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2012 đã quy định khung pháp lý quan trọng làm cơ sở cho công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tội phạm mua bán người. Với mục tiêu huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người trên phạm vi toàn quốc, ngày 10/5/2016, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 30/7 hằng năm là “Ngày Toàn dân phòng, chống mua bán người”. Nghị định số 62/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân của họ. Ngày 11/2/2019, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về “Tội mua bán người”; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 193/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, quyết định này có hiệu lực từ ngày 9/2/2020. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 1944/QĐ-TTg ngày 18/12/2021 của Chương trình thực hiện Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025, định hướng đến năm 2030, nhất là các phương án, kế hoạch, giải pháp đảm bảo ANTT, phòng, chống tội phạm trong và sau dịch bệnh COVID-19.

Ngày 18/7 vừa qua, hướng tới Ngày Thế giới và Toàn dân phòng chống mua bán người, các bộ: Lao động, Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành, tiến hành xác minh, xác định, giải cứu, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người.

Việt Nam cũng tích cực hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người, phát huy vai trò của cơ quan đại diện ở nước ngoài trong việc nắm tình hình, kịp thời phát hiện và giải cứu nạn nhân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, hồi hương công dân Việt Nam là nạn nhân bị mua bán trở về nước. Các điều ước quốc tế, hiệp định song phương, đa phương, các thỏa thuận hợp tác về phòng, chống mua bán người mà Việt Nam là thành viên được triển khai thực hiện có hiệu quả. Theo đó, ngày 20/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Kế hoạch triển khai thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của LHQ. Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế, trong đó đề ra các giải pháp toàn diện và bao trùm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý di cư, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người di cư nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nguy cơ mua bán người, giảm tội phạm mua bán người, tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ hiệu quả các nạn nhân của thực trạng mua bán người. Trên thực tế, tình hình phòng, chống mua bán người trong nước và qua biên giới cũng luôn được rà soát để kịp thời có biện pháp xử lý phù hợp, khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID -19 gây ra.

Không chỉ xâm hại quyền con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đạo đức, nhân phẩm, tính mạng của các nạn nhân, tội phạm mua bán người còn gây ảnh hưởng xấu đến nền tảng đạo đức, giống nòi, thuần phong mỹ tục, tác động trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm ấy, những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam từ Trung ương đến địa phương luôn thể hiện trách nhiệm cao, thái độ kiên quyết trong phối hợp đấu tranh, ngăn chặn, xử lý tội phạm mua bán người. Các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đã chú trọng xây dựng, duy trì hoạt động các chuyên trang, chuyên mục, chương trình phát thanh, truyền hình tuyên truyền về phòng, chống mua bán người, trong đó tập trung tuyên truyền về các phương thức, thủ đoạn mới, địa bàn trọng điểm của tội phạm này, những đối tượng có nguy cơ cao trở thành nạn nhân, quyền lợi mà nạn nhân được hỗ trợ và đường dây nóng tiếp nhận thông tin về nạn nhân và vụ việc. Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng và mạng xã hội...

Về nhiệm vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, Việt Nam đang tích cực xây dựng, triển khai quy trình chuẩn về hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng; xây dựng quy chế phối hợp liên ngành, liên cấp về tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và cung cấp kết nối dịch vụ tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và người nghi là nạn nhân bị mua bán. Củng cố, phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước trong công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo đảm tính sẵn có, dễ tiếp cận; đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân và thí điểm các mô hình hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng. Đồng thời, lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào các chương trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em và các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác…

Theo số liệu của Cục Cảnh sát hình sự, từ năm 2010-2020, trên địa bàn cả nước đã điều tra, khám phá 4.116 vụ, khởi tố 6.012 bị can phạm tội mua bán người ra nước ngoài; trong số này có 419 vụ, 476 bị can mua bán trẻ em ra nước ngoài. Theo báo cáo của các TAND, kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ năm 2016 đến năm 2021 về tội mua bán người đã giải quyết là 450 vụ/506 vụ án đã thụ lý; tội mua bán người dưới 16 tuổi đã giải quyết là 190 vụ/225 vụ án thụ lý. Đây là những con số “biết nói” minh chứng những nỗ lực không biết mệt mỏi của Việt Nam trong phòng, chống nạn mua bán người.

Cần phải nhìn nhận đúng một thực tế là không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới, hoạt động mua bán người tiếp tục diễn biến phức tạp. Ðây là công việc nhiều khó khăn, trở ngại nhưng với quyết tâm chính trị và bằng kinh nghiệm của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người. Trong bối cảnh tội phạm mua bán người hình thành các đường dây, tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán người.

Liên quan đến bản Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: “Chúng tôi mong muốn phía Hoa Kỳ trong thời gian tới hợp tác chặt chẽ hơn nữa để có đánh giá đầy đủ về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam. Chúng tôi cũng sẵn sàng trao đổi với các nước, trong đó có cả Hoa Kỳ cũng như các bên liên quan về các vấn đề hợp tác cụ thể để cùng nhau triển khai hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người”./.

Đại Thắng-Báo Công an nhân dân online