Thứ Tư, 26 tháng 6, 2024

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về “chính trị trọng hơn quân sự” trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh nhuệ về chính trị - Phần 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về “chính trị trọng hơn quân sự”

Học thuyết Mác - Lê-nin về chiến tranh và quân đội chỉ rõ tính tất yếu khách quan phải xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, đưa ra quan điểm, nguyên tắc xây dựng quân đội và những vấn đề cơ bản trong xây dựng quân đội về chính trị. Theo V.I. Lê-nin, xây dựng quân đội kiểu mới phải là xây dựng một quân đội không tách rời khỏi nhân dân, gắn chặt với nhân dân; là “một hình thức tổ chức của đội tiên phong, nghĩa là của bộ phận giác ngộ nhất, cương quyết nhất, tiên tiến nhất của các giai cấp bị áp bức”. Đồng thời, V.I. Lê-nin chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của chính trị trong quân đội vô sản, bởi: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”. Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, V.I. Lê-nin yêu cầu quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, phải xây dựng đội ngũ chính ủy, bởi “Không có các chính ủy, chúng ta sẽ không có Hồng quân”... V.I. Lê-nin cho rằng, mối quan hệ giữa chính trị và quân sự trong xây dựng quân đội vô sản là mối quan hệ biện chứng, thống nhất; chính trị có vững thì tư tưởng mới thông, quyết tâm mới cao, trí tuệ mới sáng, khả năng khắc phục khó khăn, gian khổ mới lớn, kỷ luật mới nghiêm và mới tạo ra sức mạnh quân sự để đánh thắng kẻ địch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc những vấn đề cơ bản về cách mạng xã hội chủ nghĩa, tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trên cơ sở đó hình thành tư tưởng bạo lực cách mạng ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam. Từ đó hình thành tư tưởng về quân đội cách mạng với tư cách là lực lượng chính trị, công cụ bạo lực chủ yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Tư tưởng “chính trị trọng hơn quân sự” là sự phát triển tất yếu, có cơ sở trực tiếp từ tư tưởng bạo lực cách mạng, tư tưởng vũ trang toàn dân, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, tư tưởng xây dựng quân đội nói chung và xây dựng quân đội về chính trị nói riêng của Người.

Tư tưởng “chính trị trọng hơn quân sự” được ra đời trong hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp vào tháng 2-1943 chỉ ra phương hướng xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa sắp tới, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị và vận động công nhân, vì nếu thiếu lực lượng này thì cuộc khởi nghĩa khó nổ ra ở nơi huyết mạch của quân thù và do đó, quân thù không bị tê liệt. Theo tinh thần đó, trong hai năm 1943 - 1944, phong trào cách mạng trong nước ngày càng lên cao. Ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa. Tiếp sau đó, ngày 10-8-1944, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi “Sắm vũ khí đuổi thù chung”.

Tuy nhiên, lúc này vẫn là thời kỳ xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, tình thế và thời cơ cách mạng chưa chín muồi. Tháng 7-1944, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng nhận định, các điều kiện để phát động đấu tranh vũ trang đã chín muồi, dự định triệu tập cuộc họp cuối cùng quyết định ngày giờ hành động. Song, với nhãn quan chính trị vượt trước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã kịp thời đình chỉ cuộc khởi nghĩa, tránh cho phong trào Cao - Bắc - Lạng những tổn thất lớn. Dẫn lại nhận định sáng suốt của Người, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ: “Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự”.

Tháng 12-1944, trên cơ sở lực lượng chính trị cách mạng phát triển mạnh và lực lượng vũ trang đang hình thành, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Trong Chỉ thị, Người chỉ rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”; đội có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Nhất quán với tư tưởng đó, đến tháng 4-1952, trong báo cáo tại Hội nghị Trung ương 3 khóa II, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong việc chỉnh huấn bộ đội, phải lấy chính trị làm gốc”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề hàng đầu đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng nói riêng là phải có “con đường chính trị đúng”. Vì vậy, từ rất sớm, ở mục “Cách đánh du kích” trong tác phẩm Chiến thuật du kích viết vào tháng 5-1944, Người khẳng định: Muốn đánh du kích cho thắng lợi cần bốn điều: 1. Phải có con đường chính trị đúng. 2. Phải dựa trên cơ sở quần chúng. 3. Phải có tổ chức vững chắc và nghiêm mật. 4. Phải có một lối đánh rất tài giỏi.

Đến tác phẩm Chủ nghĩa cá nhân, đăng trên báo Sự Thật, số 101, ngày 15-10-1948, với bút danh “X.Y.Z”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục đặt “chính trị” lên trước “quân sự”: “Kháng chiến nhất định thắng lợi. Hồ Chủ tịch nói như thế. Quân và dân ta đều tin tưởng chắc như thế. Vì sao mà kháng chiến nhất định thắng lợi? Vì bốn điều kiện:

1.     Đoàn kết chặt chẽ, quân dân nhất trí.

2.     Có con đường chính trị đúng.

3.     Có con đường quân sự đúng.

4.     Có sự chỉ huy khôn khéo mau lẹ, về chính trị cũng như về quân sự”.

Như vậy, về tương quan so sánh, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “chính trị trọng hơn quân sự” là cách so sánh hơn và khẳng định vị trí, tầm quan trọng và ưu tiên trước hết, trên hết của “chính trị” trong mối quan hệ với “quân sự”. Đồng thời, tư tưởng “chính trị trọng hơn quân sự” có quan hệ trực tiếp và gắn chặt với xây dựng quân đội “phải lấy chính trị làm gốc”, chính trị “biểu hiện ra trong lúc đánh giặc” trong tổng thể tư tưởng về quân đội nhân dân của Người; thể hiện tư duy biện chứng, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển trong tư tưởng quân sự của Người; thể hiện mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa chính trị và quân sự trong tổ chức, xây dựng và chiến đấu của Quân đội ta. Đây là luận điểm rất cơ bản, thể hiện nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân, chỉ rõ tầm quan trọng của chính trị, biểu hiện chính trị của quân đội, định hướng cho quá trình xây dựng Quân đội ta về chính trị. Luận điểm quan trọng này thể hiện trên các vấn đề rất cơ bản sau:

Thứ nhất, quá trình tổ chức và xây dựng Quân đội, lực lượng vũ trang của Đảng, của cách mạng Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, không thuần túy là xây dựng một tổ chức làm nhiệm vụ quân sự đơn thuần, mà là một tổ chức vũ trang thực hiện nhiệm vụ chính trị theo yêu cầu của cách mạng Việt Nam. “Nó là đội tuyên truyền” có nhiệm vụ: “dìu dắt”, “giúp đỡ”, “huấn luyện” cán bộ vũ trang ở các địa phương để phát triển lên, làm nòng cốt cho kháng chiến toàn dân, toàn diện chống xâm lược; phải “tuyên truyền”, “vận động” quần chúng nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng. Với ý nghĩa đó, hoạt động của tổ chức quân sự này là “chính trị trọng hơn quân sự”.

Thứ hai, quan điểm, mục đích, đường lối chính trị của giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng mọi hoạt động quân sự của Quân đội, nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị; tổ chức và hoạt động của Quân đội phải dựa trên nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, tuân thủ nghiêm ngặt đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động quân sự của Quân đội là vì mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của cách mạng, vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân; phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng xã hội mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cái “gốc” chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam, theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là ở chỗ đó. Bởi theo Người, “Hiểu thấu rằng chính trị là linh hồn của mọi công việc”.

Thứ ba, khẳng định “chính trị trọng hơn quân sự”, nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó không phải là chính trị thuần túy, chính trị của Quân đội ta là do chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đối với Quân đội, chính trị không đơn giản chỉ tồn tại trong ý thức, mà hơn thế, đối với từng cán bộ, chiến sĩ và toàn quân, nó phải được biểu hiện bằng hành động cách mạng thực sự; vì vậy, Người nhấn mạnh: “Riêng về các chú, chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc. Học chính cương, chính sách rồi thì phải thực hiện. Nếu thuộc lầu mà không biết đánh giặc thì vô dụng”. Đây là cách đặt vấn đề rất đặc sắc, rất khéo và khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chính trị và quân sự trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đánh giặc và đánh thắng là nhiệm vụ cao nhất của Quân đội. Quân đội sẽ trở nên “vô dụng” nếu không hoàn thành được nhiệm vụ ấy. Quân đội chiến đấu, đánh giặc là thực hiện nhiệm vụ quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì mục tiêu chính trị của Đảng. Thoát ly những điều đó thì việc chiến đấu, đánh giặc của Quân đội sẽ mất phương hướng chính trị và hành động quân sự của Quân đội không chỉ “vô dụng” mà còn “có hại”. Do đó, Người yêu cầu: “Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng có chính cương, chính sách. Đã là quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng”.

Thứ tư, nhận thức đúng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính trị và quân sự là yêu cầu cơ bản trong xây dựng Quân đội. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu anh em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng. Trái lại, nếu anh em chính trị khá, nhưng quân sự kém, hoặc chính trị quân sự đều khá nhưng thân thể yếu đuối thì cũng không thắng được”. Sự vững mạnh của Quân đội là kết quả tổng hợp của toàn bộ các mặt công tác trong xây dựng, giáo dục, huấn luyện và các mặt công tác khác. Đó chính là phương châm xây dựng một “quân đội chân chính” của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong công việc xây dựng và phát triển quân đội, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị và quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật và kỹ thuật, nâng cao kỷ luật tự giác của bộ đội ta. Phải làm cho quân đội ta thành một quân đội chân chính của nhân dân”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa mặt chính trị, nhưng Người thường xuyên nhấn mạnh, công tác chính trị trực tiếp quyết định sự vững mạnh về chính trị của Quân đội; tính quyết định đó thể hiện trong các mặt công tác quân sự, kỹ thuật, hậu cần và là định hướng để nâng cao hiệu quả, chất lượng của tất cả các mặt công tác khác. Người khẳng định: “Muốn cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng hơn nữa thì phải săn sóc đời sống vật chất của họ, nâng cao trình độ chiến thuật và kỹ thuật của họ, nhất là giáo dục chính trị, làm cho có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Sức mạnh chiến đấu của quân đội là kết quả tổng hợp của toàn bộ các mặt công tác, trong đó công tác chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi theo Người, “chính trị là linh hồn, là thống soái”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về “chính trị trọng hơn quân sự” có giá trị lịch sử và thời đại đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đối với sự nghiệp xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Trong tiến trình lịch sử cách mạng, nhất là trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu, kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng nhân dân với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có vai trò quyết định. Thắng lợi giành được trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự kết hợp tất cả hình thức đấu tranh kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, quân sự, mà đấu tranh chính trị là yếu tố quan trọng nhất, bởi “chính trị trọng hơn quân sự”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định.

Quán triệt và vận dụng tư tưởng “chính trị trọng hơn quân sự” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta đã hoàn thành nhiệm vụ làm nòng cốt trong sự nghiệp kháng chiến, giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc; giữ vững, phát huy bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, giúp đỡ nhân dân phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế..., tô thắm truyền thống, phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Sưu tầm

“Mỗi đồng chí phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào”.

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong Điện văn gửi Ban chấp hành Đảng Dân chủ Việt Nam, ngày 30 tháng 6 năm 1947. Đây là thời điểm, sau khi nước nhà mới giành độc lập chưa được bao lâu, thực dân Pháp lại dã tâm quay lại xâm lược nước ta.

Lời dạy “Mỗi đồng chí phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào” có ý nghĩa thiết thực, không chỉ là yêu cầu đối với các đồng chí trong Đảng Dân chủ, mà còn suy rộng ra tất cả các đồng chí cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, mỗi người phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào. Phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân; phải gương mẫu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng, tiếp tục đưa đất nước phát triển tiến lên. Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng luôn nêu cao tính tiền phong gương mẫu, tích cực, tự giác trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, góp phần cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, lời dạy của Bác vẫn vẹn nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động mà còn là yêu cầu đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đề cao trách nhiệm, phát huy tốt tính tiền phong gương mẫu, gương mẫu đi đầu trong thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, gắn với thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thật sự là những cán bộ có tâm, có tầm, vì nước, vì dân, là tấm gương sáng để quần chúng nhân dân học tập và làm theo.

Quân đội nhân dân Việt Nam, lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mỗi cán bộ, chiến sĩ càng phải ra sức học tập và thực hiện tốt lời căn dặn của Bác. Trên từng cương vị, chức trách được giao, mỗi quân nhân phải nâng cao nhận thức, kiên định lập trường cách mạng; không ngừng phấn đấu vươn lên vượt qua khó khăn, gian khổ; ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Càng trong khó khăn, gian khổ bản lĩnh chính trị, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội càng phải được khẳng định, phẩm chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” ngày càng tỏa sáng, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.

Sưu tầm

Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng theo lời dạy của Bác

Đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động làm nên nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là động lực sự phát triển của Đảng. Vì vậy, trong 9 thập niên xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng thực hiện, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mắt mình” để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

1. Đoàn kết là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng

Nhận thức được vị trí và vai trò của một Đảng tiền phong đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bằng hoạt động lý luận, thực tiễn của mình để chuẩn bị và thành lập một Đảng Mácxít - Lêninnít, mà còn cùng Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lùi lại lịch sử dân tộc đầu những năm 30 của thế kỷ XX, có thể thấy rằng, khi nguy cơ phân liệt về tư tưởng, tổ chức của những người cộng sản Việt Nam đang đe dọa sự phát triển của phong trào cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ nắm bắt đúng yêu cầu của lịch sử dân tộc, đó là “phải hành động, hành động mau lẹ và kiên quyết, không được phép chậm trễ hơn nữa, thiếu một Đảng cách mạng thống nhất lãnh đạo phong trào công nhân, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta sẽ như con tàu không có người cầm lái”, mà còn kịp thời và kiên quyết tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở “bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”.

Nhất quán yêu cầu phải luôn đoàn kết thống nhất và giữ vững sự đoàn kết thống nhất, củng cố, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, vì đó là cội nguồn sức mạnh, là nhân tố bảo đảm thắng lợi sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ nhận thức sâu sắc chỉ dẫn của Ph.Ăngghen: “Ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được”, mà còn luôn coi sự đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng để cùng kiên định lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; cùng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cùng chung mục đích phụng sự Tổ quốc và Nhân dân. Đồng thời, trên tinh thần tuyệt đối không thỏa hiệp với những xu hướng bè phái, cánh hẩu, địa phương chủ nghĩa, lợi ích nhóm trong Đảng; trên tinh thần coi sự chia rẽ, phân liệt là tội ác lớn nhất đối với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu, là nguồn sức mạnh để những người cộng sản Việt Nam “khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, mà còn chỉ rõ Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân, nên càng phải coi “sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo” để ngăn ngừa chủ nghĩa cá nhân, sự chủ quan, tự mãn, bệnh “kiêu ngạo cộng sản” và nhất là căn bệnh “bằng mặt mà không bằng lòng”, “trước mặt im lặng, sau lưng thì thầm” trong nội bộ…

Quán triệt những chỉ dẫn của Người, trong suốt tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, dù phải trải qua nhiều cam go, thử thách, song Đảng Cộng sản Việt Nam không khi nào sao nhãng việc thực hiện nghiêm các nguyên tắc về xây dựng Đảng cách mạng kiểu mới và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ được thể hiện trong việc kiên định đường lối, quan điểm, Điều lệ và nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn trong công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trong bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bảo vệ đường lối đổi mới của Đảng… Đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ gắn liền với việc tuân thủ các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với Nhân dân, chú trọng công tác kiểm tra và giám sát, mà còn là mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng phải thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nâng cao bản lĩnh chính trị và trau dồi tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý… để từng tổ chức Đảng cũng như toàn Đảng là một khối vững chắc, trong sạch, phát triển và xứng đáng với vai trò tiền phong.

Thực tế là, nhờ nắm vững lý luận, phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nhờ nghiêm túc thực hiện đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong đó mỗi cấp uỷ luôn tiêu biểu cho ý chí thống nhất của Đảng; mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị đều tuân thủ nghiêm ngặt tổ chức, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, nên “Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước, mà còn giữ vững được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực và đập tan được mọi âm mưu của giai cấp tư sản hòng tranh quyền lãnh đạo cách mạng với Đảng ta” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Tiếp đó, trên hành trình vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, kiên định một Tổ quốc Việt Nam thống nhất, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó cho chúng ta”[5] đã không chỉ được thấm nhuẩn, mà bài học về sự giữ gìn, củng cố khối đoàn kết thống nhất của Đảng thời kỳ đấu tranh giành chính quyền cũng được phát huy để nhân nguồn sức mạnh của Đảng, để Đảng ngày càng phát triển.

Có một sự thật không thể phủ nhận là, “đoàn kết là một lực lượng vô địch. Lực lượng đoàn kết đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Lực lượng đoàn kết đã giúp kháng chiến thắng lợi. Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước” đã được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát huy trong những năm lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) để giành được thắng lợi cuối cùng; để hoàn thành trọng trách thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

2. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài

Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trung thành với lý luận Mác - Lênin về xây dựng một Đảng Mácxít - Lêninnít kiểu mới, mà còn kế thừa những giá trị truyền thống đoàn kết tốt đẹp của dân tộc vào tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, vào công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Thực tế cho thấy là, đặc biệt coi trọng xây dựng, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, càng ở vào những thời khắc gay go nhất của lịch sử cũng như trong mỗi bước chuyển của sự nghiệp cách mạng cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng yêu cầu và chỉ rõ Đảng Cộng sản Việt Nam phải bản lĩnh, kiên định và đoàn kết thống nhất trong nhận thức, tư tưởng, hành động. Điều đó có nghĩa là, Đảng không chỉ phải độc lập, sáng tạo đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn phù hợp điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và quốc tế, phù hợp xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, mà còn phải tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng từ Trung ương xuống địa phương; phải tăng cường, bảo vệ sự đoàn kết thống nhất cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) và trong toàn Đảng để làm hạt nhân vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm nhân nguồn sức mạnh nội lực, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lịch sử xây dựng và phát triển của Đảng cũng cho thấy, đoàn kết thống nhất không phải chỉ là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, không phải chỉ cần thực hiện trong Đảng để Đảng ngày càng phát triển, mà đó còn là đòi hỏi khách quan của toàn thể dân tộc trong hành trình đấu tranh giải phóng, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đến tươi đẹp, phồn vinh, hạnh phúc. Vì thế, để sự đoàn kết thống nhất làm nên sức mạnh của một Đảng “vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, “tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”, thì hơn bao giờ hết, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên càng phải thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết; càng phải coi đoàn kết là vấn đề then chốt/đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết để củng cố, bồi tụ nguồn sức mạnh của Đảng; càng phải nhận thức sâu sắc rằng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, chủ nghĩa cơ hội và mọi biểu hiện bè phái, lợi ích nhóm đều sẽ phá nát sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thúc đẩy sự tan rã, tê liệt, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng…Vì thế, trước những khó khăn, thách thức khôn lường của thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức cơ sở Đảng từ Trung ương xuống đến cơ sở phải thường xuyên thực hiện nghiêm các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chú trọng công tác kiểm tra và giám sát cũng như rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về mọi mặt, mà còn đồng thời nhấn mạnh mỗi chi bộ phải thực sự đoàn kết thống nhất để xứng đáng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng; để đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng nhằm thực hiện tốt phương châm phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” như Nghị quyết Đại hội XIII đã chỉ ra.

Từ những bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong hơn 38 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, có thể thấy “đoàn kết làm ra sức mạnh”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”; “đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết là thắng lợi của chúng ta” và sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn gắn liền với sự gương mẫu về đạo đức của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong bối cảnh có những thay đổi về mặt nhân sự ở cơ quan lãnh đạo cấp cao gần đây và việc kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, càng thấy thấm thía những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy về đoàn kết thống nhất trong Đảng; về việc toàn Đảng phải củng cố, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất để Đảng phát triển vững mạnh. Điều đó cũng có nghĩa là, càng nhiều khó khăn, thách thức thì từng cấp ủy, tổ chức Đảng; từng cán bộ, đảng viên càng phải chú trọng việc phòng và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quét sạch tư tưởng cá nhân chủ nghĩa gắn với đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong Đảng để làm trong sạch đội ngũ. Đặc biệt, việc đẩy mạnh phòng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, với việc đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác nhân sự của Đảng nói riêng những nhiệm kỳ gần đây, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng càng cho thấy tầm quan trọng của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng! Càng cho thấy là, để hoàn thành trọng trách mà Tổ quốc và Nhân dân giao phó, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu càng phải nghiêm khắc với chính mình trong rèn luyện đạo đức cách mạng, trong sự nêu gương phòng và chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ sớm, từ xa để “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo.

Đồng thời, việc tăng cường công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ động, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và thực hiện dân chủ, kiểm tra và giám sát nghiêm ngặt trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng sẽ vừa góp phần làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người về đoàn kết thống nhất, vừa sớm phát hiện và giải quyết dứt điểm mọi mầm mống mất đoàn kết trong nội bộ từ khi chớm xuất hiện, củng cố sự quyết tâm, tin tưởng vào Đảng, vào chế độ của đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Cùng với đó, việc tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng làm trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị; với Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; với Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương; với Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm… cũng sẽ thiết thực tạo nên sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm, hành động của từng tổ chức cơ sở Đảng cũng như của từng cán bộ, đảng viên. Đó chính là góp phần để Đảng trong sạch, vững mạnh về phẩm chất đạo đức; vững vàng về trí tuệ và bản lĩnh chính trị; nghiêm ngặt về Điều lệ Đảng và kỷ luật Đảng; đoàn kết thống nhất trong cả tư tưởng và hành động. Đó cũng chính là thấm nhuần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ta thành công chính vì ta đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng” để vừa thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII, vừa chuẩn bị thật tốt các Văn kiện cũng như công tác cán bộ, công tác nhân sự trình Đại hội XIV của Đảng./.

Sưu tầm

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc - Những chỉ dẫn quan trọng cho giai đoạn hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng và cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường, người bạn thân thiết của các dân tộc bị áp bức trên thế giới; Người cũng là vị “kiến trúc sư vĩ đại” của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc mà đất nước ta đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện. Những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người để lại trong công cuộc xây dựng xã hội mới vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được vận dụng phù hợp, khoa học vào thực tiễn đất nước hôm nay và mai sau.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng xã hội tốt đẹp, tiến bộ, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam

Thứ nhất, là Người đầu tiên tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn mô hình xã hội phù hợp, tốt đẹp cho đất nước.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đất nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, nhất là về lựa chọn mô hình xây dựng xã hội mới. Mô hình xã hội phong kiến (mà hiện thân là triều đình nhà Nguyễn) hay xã hội tư sản (mô hình xã hội do chính quyền thuộc địa thực dân Pháp tạo dựng) đều chứa đầy mâu thuẫn, hạn chế, bất công nên không phù hợp với thực tiễn lịch sử, không được nhân dân chấp nhận. Trong hoàn cảnh ấy, ở nước ta chưa có ai, tổ chức hay lực lượng nào đủ khả năng tìm kiếm, lựa chọn đường lối cứu nước đúng đắn và một mô hình xã hội tốt đẹp, phù hợp.

Mặc dù các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, nhưng có sự khác biệt cơ bản về đường lối cách mạng, phương pháp tiến hành, lập trường giai cấp (đặc biệt là quan điểm về một mô hình xã hội mới sẽ được xây dựng ),... Trong đó, các sĩ phu yêu nước chủ trương phát động phong trào Cần Vương (giai đoạn 1885 - 1896), sau là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế (giai đoạn 1884 - 1913) của vị anh hùng Hoàng Hoa Thám chống thực dân Pháp; tuy nhiên, tất cả bị đàn áp dã man và dẫn đến kết cục thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là bởi các vị tiền bối trên mang trong mình ý thức hệ của giai cấp phong kiến đã lạc hậu, lỗi thời, mong muốn khôi phục xã hội phong kiến (kiểu xã hội đã hết vai trò trong tiến trình lịch sử dân tộc) nên không được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân. Trong khi đó, nhiều phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư tưởng tư sản, như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân,... của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như Phan Bội Châu (muốn dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới theo mô hình xã hội nước Nhật lúc bấy giờ); Phan Châu Trinh (chủ trương dựa vào Pháp để nâng cao dân trí, dân quyền) phát triển rộng khắp, nhưng cuối cùng cũng lâm vào bế tắc và thất bại. Thực tế, tư tưởng xây dựng mô hình xã hội kiểu tư sản theo các phong trào trên còn thiếu thực tế và không đáp ứng được yêu cầu hiện thực xã hội thời bấy giờ.

Đứng trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại), một con người ưu tú với bản lĩnh quyết đoán và tầm nhìn vượt lên trên những hạn chế của điều kiện lịch sử; có trí tuệ siêu việt, sự nhạy cảm chính trị sâu sắc, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,... đã tìm ra con đường, hướng đi đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Kể từ thời điểm bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước (năm 1911) đến khi xác định được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tiếp nhận thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực tìm kiếm và lựa chọn mô hình đúng đắn về một xã hội mới, tốt đẹp cho dân tộc; thực tiễn hoạt động cách mạng ở trong nước và quốc tế đã giúp Người hiểu rõ sự lỗi thời, lạc hậu của xã hội phong kiến và mặt xấu xa, tàn bạo, bất công của xã hội tư sản ở cả chính quốc lẫn thuộc địa.  Trên cơ sở phân tích, đối chiếu các kiểu xã hội trong dòng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử nhân loại, Người cho rằng tính chất phiến diện, nửa vời, không triệt để của xã hội tư sản khiến ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa và sẽ làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai, rằng “chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được”.

Khác hẳn với xã hội tư sản là xã hội Xô-viết, tuy lúc bấy giờ còn non trẻ, nhưng đã sớm bộc lộ sức sống và tính ưu việt, mục tiêu phục vụ đều hướng đến lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, khi mà “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do”. Như vậy, từ con đường cách mạng vô sản, hướng cách mạng giải phóng dân tộc theo những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời được tận mắt chứng kiến, nhìn nhận thực tiễn sinh động về mô hình xã hội Xô-viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình xã hội Xô-viết làm nền tảng để xây dựng đất nước ta. Người chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định về mục đích, nguyên tắc của mô hình xã hội mới, nhưng về hình thức, bước đi và cách làm cụ thể khi vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người lại có sự độc lập, sáng tạo và các bước phát triển mới, hoàn toàn không giáo điều, bảo thủ, rập khuôn, máy móc. Có thể nói, thực tiễn đã chứng minh, quyết định của Người về con đường cách mạng của dân tộc là sự lựa chọn sáng suốt, phù hợp với quy luật khách quan, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của thực tiễn đất nước cũng như nguyện vọng, lợi ích toàn thể dân tộc.

Thứ hai, khẳng định tính tất yếu đối với sứ mệnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam; đồng thời, chuẩn bị những tiền đề cốt yếu, nền tảng tư tưởng quan trọng để củng cố, hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp.

Năm 1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo - tác phẩm có tác động mạnh mẽ, khiến Người cảm động, sáng tỏ niềm tin về một con đường giải phóng dân tộc đầy hy vọng mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua, đồng thời định hình rõ mô hình về một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Theo đó, Người khẳng định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, bởi vì trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”. Trên cơ sở lý luận được tiếp thu từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết khoa học, cách mạng nhất của thời đại và từ thực tiễn khảo nghiệm của bản thân, Người dồn tâm huyết để chuẩn bị toàn diện, đầy đủ mọi khía cạnh cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp.

Theo đó, đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu, phân tích và khẳng định tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - mô hình lý tưởng về một xã hội phù hợp với đất nước. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, ngay trong Chánh cương vắn tắt (năm 1930), Người xác định nhiệm vụ “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; sau khi nước nhà giành được độc lập, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”, rằng “có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước phát triển phồn vinh, bền vững, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Bên cạnh việc khẳng định tính tất yếu trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, Người còn dày công phân tích, phác thảo đường hướng lớn về nội dung, động lực, con đường, bước đi, phương thức và biện pháp,... để xây dựng xã hội tốt đẹp ấy. Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới được Người khái quát hết sức giản dị, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, như chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có thuốc, phong tục, tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...

Thứ ba, xác định, vạch rõ chủ trương, nguyên tắc xuyên suốt, hướng đi lâu dài đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.

Nội dung đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dù được diễn đạt với ngôn từ, nội hàm khái niệm khác nhau,... song về bản chất, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với điều kiện đất nước. Đó là một xã hội hiện thực do con người, vì con người, giá trị con người được giải phóng triệt để; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ, một xã hội đạt đến trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất mà nhân loại nói chung, dân tộc và nhân dân Việt Nam nói riêng hằng mong ước. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”.

Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, theo Người, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải xác định đúng, trúng phương thức, bước đi cùng với quyết tâm cao và những biện pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam và với đặc điểm, xu thế của thời đại. Người chỉ rõ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên động lực và phương cách cơ bản, lâu dài, quyết định nhất là huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân, cụ thể:

Trên lĩnh vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề then chốt, đồng thời cần chú trọng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hóa, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ phân phối và quản lý kinh tế phù hợp; nền kinh tế đất nước ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”. Song, Người nhấn mạnh, một xã hội tốt đẹp không thuần túy chạy theo lợi ích kinh tế, trái lại, phát triển kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Đó chính là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa, giá trị đích thực của xã hội mới tốt đẹp mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện, rằng “xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”.

Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền - một Đảng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Bên cạnh đó, phải xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ triệt để.

Trên lĩnh vực văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem yếu tố văn hóa là mục tiêu cơ bản và động lực của một xã hội tốt đẹp, có sự hiện diện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội. Cũng theo Người, mục tiêu cơ bản và trọng tâm của văn hóa phải là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó bao gồm các phẩm chất “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài và nền tảng đạo đức luôn được coi là gốc rễ. Sức hấp dẫn của một xã hội tốt đẹp hay của chủ nghĩa xã hội không phải chỉ ở mức sống vật chất cao, mà cốt lõi là ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm chất đạo đức của những con người sinh sống trong xã hội ấy.

Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không phải là ước vọng, giấc mơ, ý tưởng hay là lời hiệu triệu thuần túy. Xã hội đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện thực hóa không chỉ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, những luận chứng, luận cứ đầy đủ, rõ ràng, mà còn bằng sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu toàn thông qua việc xác định rõ những bước đi, lộ trình, cách thức, biện pháp hết sức cụ thể, khoa học, hiệu quả và phù hợp với đất nước. Có thể nói, Người chính là “vị kiến trúc sư vĩ đại” đã kiến tạo nền tảng cơ bản, điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của một xã hội tốt đẹp ở nước ta, đồng thời đặt nền móng cho việc củng cố, hoàn thiện xã hội ấy.

Nhầm cương vị

“Danh chính ngôn thuận” hay “Danh có chính thì ngôn mới thuận” là câu thành ngữ để khuyên răn việc nói năng phải đúng vị trí, danh phận của mình. Vậy nhưng, trên thực tế, có những người thường xuyên nhầm cương vị, hay cố tình nhầm cương vị để đưa ra những phát ngôn "văng mạng" nhằm đạt được mục đích; trong nhiều trường hợp, đó còn là sự vi phạm kỷ luật, pháp luật trong phát ngôn.

1. Cương vị được hiểu là vị trí trong một hệ thống tổ chức, quy định quyền hạn và trách nhiệm cụ thể. Người khác chỉ chấp hành (làm theo, nghe theo) người nói khi họ trên cương vị được tổ chức giao, có chức trách, quyền hạn về lĩnh vực đó, là sự “đúng vai”. Và người nói cũng chỉ nên hoặc được phép nói, yêu cầu ai đó bằng đúng cương vị, chức trách của mình. Những người nhầm cương vị, phần lớn là do tự cao tự đại, không hiểu vị trí của mình nên có những phát ngôn rất bừa bãi, lộng ngôn, nhất là trên mạng xã hội. Thậm chí có người tự cho mình có quyền phán xét như quan tòa, nhiều nhất là những phát ngôn, bình phẩm, ra lệnh cho người khác từ các sự việc cụ thể trong cuộc sống cho đến cả những việc ở tầm quốc gia đại sự.  

Trên thực tế, có những người phát ngôn không đúng cương vị chỉ đơn giản là sự bột phát của cảm xúc, không mang hàm ý xấu, không gây tổn hại đến ai nên sự bột phát ấy thường được cảm thông. Ví như chúng ta thường được nghe một vài ý kiến, nhất là của những nhân chứng lịch sử kể về hồi ức, hồi ký khi họ được tham gia hoặc chứng kiến sự việc có tính lịch sử. Thời điểm họ được tham gia hay chứng kiến ở vài chục năm trước, khi họ chỉ là một người bình thường, một nhân viên, một chiến sĩ liên lạc, một binh nhì... nhưng khi kể lại câu chuyện đó, họ lại kể với vai trò như một quản đốc, một người chỉ huy, người có thể tham gia vào việc ra quyết định.

Nhưng có những người hoàn toàn có chủ đích khi phát ngôn không chính danh, không đúng cương vị của mình. Họ biết danh phận, biết mình không có cương vị đó nhưng lại lợi dụng điều này để đánh giá, nhận xét, phán xét bừa bãi trong các sự việc. Như chuyện một nữ doanh nhân lên mạng xã hội phát ngôn bới móc đời tư, kết tội nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, doanh nhân khác... thời gian qua. Mới đây nhất, cơ quan chức năng khởi tố, bắt tạm giam một cá nhân khi người này thường xuyên có những phát ngôn trên mạng xã hội vượt rất xa quyền hạn được phép. Ông ta tự cho mình có quyền phê phán cả thể chế chính trị của đất nước. Ông ta nhiều lần lớn tiếng cho rằng cần giải tán tổ chức này, thành lập tổ chức kia; phê phán cơ quan này, tổ chức nọ là cồng kềnh, thiếu hiệu quả... Nhiều cá nhân khác cũng sa vào tình trạng này. Đương nhiên, họ không phải là “ông trời” nên khi đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì họ sẽ bị pháp luật xử lý.

Thời gian qua, lợi dụng các sự việc, nhất là những sự việc ở tầm quốc gia đại sự, một số cá nhân rất lộng ngôn trên mạng xã hội. Họ tự cho mình có quyền sinh quyền sát, yêu cầu người khác phải làm theo ý mình. Họ lên giọng chỉ đạo, định hướng, thậm chí dạy bảo cả cơ quan chức năng phải làm thế này, làm thế kia... như chỗ hàng tôm hàng cá. Trong số đó có không ít cán bộ, đảng viên, những người đáng ra phải chấp hành tôn chỉ, mục đích khi tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, chấp hành điều lệ, quy định của Đảng, nhất là quy định về những điều đảng viên không được làm. Những phát ngôn bừa bãi này hoàn toàn khác với ý kiến góp ý, phản biện bởi nó không chỉ không đúng lúc, đúng chỗ mà còn nhằm mục đích làm mất uy tín, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.

2. Ngạn ngữ có câu: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Việc nhầm cương vị hiểu sâu xa thì rất tai hại. Thứ nhất, khi người không có cương vị lại nhầm mình có thể đưa ra quyết định, lên tiếng chỉ đạo... thì điều đó là vô nghĩa, là sự khoác lác, "ngáo chữ", "ngáo lời". Thứ hai, việc nhầm cương vị sẽ dẫn đến hiện tượng “nói cho sướng mồm”, ai cũng có thể phát ngôn như ở nơi vô cương vô pháp. Nay anh ba hoa khoác lác được việc này thì mai anh lại ba hoa khoác lác việc khác. Trong khi đó, xã hội luôn có kỷ cương, trật tự; pháp luật điều chỉnh hành vi của mọi cá nhân, tổ chức. Thứ ba, phát ngôn bừa bãi lâu dần rất dễ hình thành ảo tưởng quyền lực, tự huyễn hoặc mình có quyền lực. Nguy hiểm hơn, có nhiều đối tượng nhầm cương vị theo kiểu cố tình. Thực chất là họ tìm mọi cách để đạt được lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm đằng sau đó bằng sự tác động vào dư luận. Đây là hiện tượng không mới nhưng vẫn đang diễn biến phức tạp.

Những cá nhân phát ngôn nhầm cương vị tạo ra dư luận xã hội rất xấu, gây mất trật tự an ninh xã hội. Nếu họ là những người nổi tiếng như nghệ sĩ, ca sĩ thì dễ khiến lớp trẻ trong xã hội bị ảnh hưởng theo những trào lưu nói năng, suy nghĩ, hành động lệch chuẩn ấy. Nếu họ là những người có sự ảnh hưởng về chính trị như nhà văn, nhà báo, luật sư, cán bộ, đảng viên, người hoạt động chính trị... thì rất dễ bị các thế lực phản động lôi kéo, mua chuộc dẫn đến sa ngã. Những phát ngôn của họ còn là cơ hội để các thế lực thù địch xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước, làm giảm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiêm minh của luật pháp.

3. Dưới góc độ pháp lý, mọi công dân đều phải nói và làm trong khuôn khổ pháp luật. Công dân được làm những gì pháp luật không cấm. Pháp luật Việt Nam ghi nhận quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ quan điểm, thái độ của cá nhân đối với các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, pháp luật cũng bảo vệ quyền, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mọi công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân. Điều 20, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm...”. Điều 34, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định rõ: "Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ". Hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đương nhiên sẽ bị pháp luật điều chỉnh. Luật An ninh mạng quy định các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng, trong đó có: “Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế-xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”. Bộ luật Hình sự hiện hành quy định, hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân... hình phạt có thể tới 7 năm tù.

Đối với việc phát ngôn của cán bộ, đảng viên, Đảng đã có đầy đủ các quy định yêu cầu mọi đảng viên chấp hành, đó cũng là kỷ luật đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đã quy định rất rõ điều này, cũng nhằm ngăn ngừa tình trạng đảng viên suy thoái, rơi vào "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”. Ở nhiều văn bản như Quy định số 37-QÐ/TW ngày 25-10-2021 về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 69-QÐ/TW ngày 6-7-2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; mới đây nhất là Quy định số 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới vừa được Bộ Chính trị ban hành đều quy định rất rõ việc phát ngôn của đảng viên. Tinh thần chung của các văn bản ấy đối với việc phát ngôn của đảng viên, đó là đảng viên không được nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng; không nói, viết, làm trái với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không làm những việc mà pháp luật không cho phép. Sở dĩ việc này được Đảng quy định rất chặt chẽ với đảng viên bởi đảng viên là người ưu tú so với quần chúng. Đảng viên phải gương mẫu trong lời nói, việc làm, có như vậy mới lãnh đạo, mới tập hợp được quần chúng.

Chấp hành nghiêm kỷ luật, pháp luật, trong đó có kỷ luật, pháp luật về phát ngôn là yêu cầu nghiêm túc và cần thiết trong xã hội. Để làm tốt điều này, mỗi người nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng phải tự rèn mình, tự soi mình, sửa mình. Nếu không đặt mình trong tổ chức, trong khuôn khổ chung, không được tổ chức kiểm tra, giám sát, giúp đỡ, thường xuyên chấn chỉnh thì không thể thực hiện tốt việc tự soi, tự sửa mình.

Sưu tầm

Diệt trừ thói đạo đức giả là diệt trừ chủ nghĩa cá nhân

Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực hiện tốt bổn phận, nâng cao lòng tự trọng của mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất, danh dự, sống có trách nhiệm với cơ quan, địa phương, đất nước, đảng viên và cán bộ mới làm tròn trách nhiệm, lời hứa thiêng liêng trước cờ Đảng, trước nhân dân.

Thông qua việc làm cụ thể, nhất là thực hiện nghiêm Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, tự mỗi cá nhân, chi bộ nêu gương sáng về lối sống, lý tưởng, đạo đức cách mạng, phụng sự nhân dân.  

Tại sao những kẻ đạo đức giả khó bị vạch mặt?

Thời gian gần đây, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức thì sự giả tạo của những con mọt này càng tinh vi. Thói đạo đức giả ngày càng lên ngôi để đối phó với cấp trên, cấp dưới và dư luận xã hội; lẩn trốn sự kiểm tra, giám sát của tập thể, của cơ quan chức năng; các tổ chức, quần chúng nhân dân...

Tại sao thói đạo đức giả, những kẻ đạo đức giả chưa bị vạch mặt? Có thể khẳng định, ở nhiều cơ quan, những kẻ đạo đức giả nói chung là không thể giấu được. Nhiều người dù biết nhưng không đấu tranh, hoặc không dám đấu tranh với thói đạo đức giả, thậm chí còn dung túng cho nó. Bởi, về cơ bản, những kẻ đạo đức giả ấy nằm trong nhóm những người có ảnh hưởng, có chức quyền với nhóm người còn lại trong cơ quan, địa phương. Vì thế, những người không có quyền lực nảy sinh tâm lý e ngại, thờ ơ, ngại va chạm, hoặc sợ va chạm. Chính sự yếu đuối, không mạnh dạn của không ít quần chúng đã tạo môi trường, mảnh đất sống cho thói đạo đức giả của một số cán bộ có chức quyền ngày càng phát triển.

Làm thế nào để diệt trừ những kẻ đạo đức giả trong tổ chức?

Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân sâu xa dẫn đến thói đạo đức giả trong một số cán bộ, đảng viên hiện nay chính là chủ nghĩa cá nhân. Muốn tiêu diệt tận gốc thói đạo đức giả, nhất định phải đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân. Chỉ có như vậy mới có thể chống thói đạo đức giả từ gốc. Đây cũng là cách ngăn trừ hậu quả, chặn bọn mối mọt đục ruỗng từ bên trong.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ rõ, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân, do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Để che đậy hành vi này, những người “có ít nhiều quyền hành trong bộ máy chính trị” thường phải mang bộ mặt đạo đức giả để tiếp tục luồn lách mà trục lợi. Những người này, ban đầu có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có động cơ, tuy nhiên, khi trong tay có chút quyền lực thì họ đã không thể ngăn được lòng tham, vì thế, tìm mọi cách mà vơ vét, làm lợi cho mình và gia đình. Lòng tham và dục vọng quá lớn khiến họ đánh mất mình. Họ đi vào suy thoái đạo đức, lối sống, lừa gạt tổ chức, cá nhân, tìm mọi cách tham ô, tham nhũng, thỏa mãn dục vọng thấp hèn, quên đi lý tưởng cao quý, những bài học về đạo đức cách mạng, quên đi bổn phận công bộc cho nhân dân, quên đi lời hứa trước Đảng, trước nhân dân, tình đồng chí, nghĩa đồng bào, quên đi biết bao người đang phấn đấu, lao động, chiến đấu, sản xuất để đất nước có được vị thế, tiềm lực như ngày hôm nay.

Cái gốc của người cán bộ cách mạng chính là đạo đức cách mạng

Ngày nay, không ít cán bộ rời xa những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quên đi cái gốc của người cán bộ cách mạng chính là đạo đức cách mạng. Quên đi lời dạy của Bác rằng, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống, mà do bền bỉ tu dưỡng, rèn luyện mà thành. Họ đã quên đi sự rèn luyện mỗi ngày, quên đi những đức tính tốt đẹp cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư..., chỉ lo vinh thân phì gia, vơ cho đầy túi, xây cho nhiều nhà, sống xa hoa, rời xa quần chúng nhân dân. Nguy hiểm nhất, có một số cán bộ khi có chức vụ, quyền lực, được quản lý cơ quan, địa phương ở nhiều cấp khác nhau thì bắt đầu dùng thói đạo đức giả, những lời lẽ hoa mỹ, những kiến thức trống rỗng, những câu chuyện phi thực tế để che đậy mưu đồ bất chính, gây dựng ê-kíp làm ăn phi pháp, ăn chặn, tham nhũng, nhận hối lộ, đề bạt bổ nhiệm sai người, sai vị trí... dẫn tới việc những con số được thống kê từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương về tình trạng cán bộ vi phạm kỷ luật, suy thoái cứ ngày một dày lên.

Có thể khẳng định, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị vẫn còn không ít người giữ thói đạo đức giả. Đó là những hành vi dùng vỏ bọc đạo đức bề ngoài để che đậy bản chất cơ hội bên trong, lạm quyền, đánh lừa cá nhân, tập thể, lộng quyền, tiếp tay cho các việc làm sai trái nhằm mưu lợi riêng, đây là điều hết sức nguy hại. Thắng lợi của công cuộc đổi mới không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, thói hư tật xấu của đảng viên, cán bộ. Chống thói đạo đức giả đã trở thành vấn đề bức thiết trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thực tế cho thấy, ở thời nào cũng vậy, nếu cán bộ, đảng viên luôn nêu gương, tận tâm, tận lực thực thi công vụ, nói cho dân nghe, làm cho dân hiểu, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì sẽ để lại tiếng thơm muôn đời và ngược lại. Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực hiện tốt bổn phận, nâng cao lòng tự trọng của mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất, danh dự, sống có trách nhiệm với cơ quan, địa phương, đất nước, đảng viên và cán bộ mới làm tròn trách nhiệm, lời hứa thiêng liêng trước cờ Đảng, trước nhân dân.

Nói tới phẩm chất người cán bộ, tinh thần phụng sự cách mạng, nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới những phẩm chất cốt lõi của người cán bộ, như: Phải tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của đất nước, dân tộc lên trên hết, trước hết; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận hiếu với nhân dân; hết lòng yêu thương đồng chí, đồng bào, yêu thương con người; cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư; thật sự là công bộc của nhân dân; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội...

Trước những thách thức, yêu cầu của tình hình và điều kiện phát triển mới của đất nước, Đảng ta ngày càng chú trọng bảo đảm và phát huy sự liêm chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Việc ban hành Quy định số 144-QĐ/TW là cấp thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với quy định kịp thời này, Đảng đã đưa ra thông điệp mạnh mẽ là toàn Đảng cùng chấp hành nghiêm những tiêu chuẩn đạo đức ở mức rất cao, rất cụ thể với cán bộ, đảng viên. Đây sẽ là cơ sở để đánh giá, xử lý đảng viên vi phạm, kém rèn luyện, tha hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Những bài học Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta về công tác cán bộ chưa bao giờ cũ. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; đồng thời, phải tự thấy day dứt, hổ thẹn với những nhận thức lệch lạc và việc làm chưa đúng của mình. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, phẩm giá, duy trì lối sống trong sạch, lành mạnh, văn minh, nâng cao “sức đề kháng” trước những cám dỗ vật chất, tiền bạc, danh vọng, tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, tham nhũng.

Ngày nay, đối với các cơ quan, tổ chức đoàn thể, trước thực tế tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống có chiều hướng phức tạp, cần nghiêm túc nhìn nhận sự yếu kém, hạn chế; các quy chế, quy định chưa được thực hiện đồng bộ, nghiêm túc; công tác kiểm tra, giám sát còn buông lỏng, thiếu thường xuyên. Vì vậy, tới đây, các tiêu chí về rèn luyện cán bộ cần cụ thể và chặt chẽ hơn nữa; siết chặt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; xây dựng các quy chế cần khoa học làm căn cứ để đánh giá đạo đức của cán bộ, đảng viên một cách khách quan, thực chất, toàn diện và nhân văn; khuyến khích quần chúng nhân dân mạnh dạn tố giác các hành vi vi phạm; bóc trần thói đạo đức giả của cán bộ, đảng viên kém tu dưỡng, rèn luyện.

Sưu tầm

Thói đạo đức giả - kẻ thù của nhân dân lao động

“Đạo đức giả”-dân gian hay gọi là thói đạo đức giả, là những hành vi dùng vỏ bọc đạo đức bề ngoài; nói và làm những điều tưởng như chuẩn mực, giống y như những người có đạo đức, để che đậy bản chất cơ hội bên trong, đánh lừa cá nhân, tập thể, nhằm mưu lợi riêng, trục lợi cá nhân, gây hại cho xã hội.

Những năm gần đây, thói đạo đức giả trong xã hội, đặc biệt ở một số cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng nhanh. Biểu hiện của thói đạo đức giả, cá nhân, vị kỷ trong không ít cán bộ, đảng viên vô cùng phức tạp, tinh vi. Vậy nhưng, điều này chưa được các cơ quan chức năng đánh giá đúng mức những nguy hại, hệ lụy mà nó gây ra để phòng tránh.

Cháy nhà... mới ra mặt chuột

Qua những câu chuyện từ nhiều chuyến đi thực tế, chúng tôi nhận thấy, khi số ít cán bộ thoái hóa biến chất còn chưa bị các cơ quan chức năng xử lý, họ là những người thực sự có quyền lực ở các cơ quan, địa phương, thậm chí ở bộ, ngành, Trung ương; là những người “nói có người nghe, đe có kẻ sợ”. Khi chưa bị phát hiện "nhúng chàm", họ đã dùng bộ mặt đạo đức giả “qua mặt” được nhiều cơ quan chức năng, tổ chức đảng các cấp; được tin tưởng giao giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Đến thời điểm có quyền lực, được trao quyền, họ củng cố quyền lực bằng những phát biểu rao giảng đạo đức cách mạng, sự gương mẫu cho cấp dưới, cho nhân dân. Thật buồn, chỉ đến khi “cháy nhà mới ra mặt chuột”, bộ mặt đạo đức giả bị bóc trần.

Thói đạo đức giả với người dân đã nguy hại, với những người có chức vụ, chủ doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng lớn càng nguy hại hơn. Địa vị càng lớn, thói giả dối càng được che đậy tinh vi; gây ra những hành động phi đạo đức với hậu quả càng lớn cho nhân dân. Dùng thói đạo đức giả không chỉ che đậy những âm mưu và hành động bất chính, đục khoét của công, tham nhũng của Nhà nước, nhân dân; tư lợi cho bản thân, họ hàng, mà nó còn làm bại hoại đạo đức ở đơn vị, địa phương, tổ chức. Những kẻ đạo đức giả ấy, xét đến cùng là điển hình của chủ nghĩa cá nhân.

Hậu quả mà những cán bộ đeo mặt nạ đạo đức giả gây ra là vô cùng to lớn về kinh tế, về tinh thần, làm rối loạn tổ chức, gây mất niềm tin của nhân dân vào cán bộ. Theo thống kê của cơ quan chức năng, con số hàng chục nghìn đảng viên, trong đó có những cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật liên quan đến tham nhũng, tham ô, nhận hối lộ mỗi năm cho thấy tình trạng này đã đến mức báo động.

Vì thế, thói đạo đức giả cần được chỉ mặt rõ ràng để dùng mọi biện pháp giáo dục nghiêm khắc bằng những hình thức nghiêm minh của pháp luật; bằng những quy định chặt chẽ của Đảng và các tổ chức chính trị, xã hội; bằng sự đồng lòng thông qua những hương ước của cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm những cán bộ này là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc cho những cán bộ đang giấu giếm bộ mặt đạo đức giả, giấu giếm ý định thu lợi cá nhân, chủ nghĩa cá nhân mà chưa bị phát hiện.

Những kẻ đạo đức giả là ai? Biểu hiện thường thấy là gì?

Xin lấy một ví dụ điển hình nhất về thói đạo đức giả của một số cán bộ, các chủ doanh nghiệp trong thời gian qua là sự kiện hàng chục cán bộ các cấp, doanh nghiệp liên quan tới chuyến bay giải cứu, thời gian diễn ra đại dịch Covid-19, đưa người dân ở nước ngoài về nước, đã phải ra hầu tòa và chịu các mức án thích đáng.

Từ một chủ trương đúng đắn, nhân văn của Đảng, Nhà nước chia sẻ khó khăn với nhân dân, đưa nhân dân ra khỏi những vùng nguy hiểm của dịch bệnh, thế mà nhiều cán bộ cấp cao, doanh nghiệp đã lợi dụng vị trí công tác để tìm mọi cách ăn chặn tiền của người dân.

Trong khi đó, họ vẫn lớn tiếng, mạnh miệng, trắng trợn lừa dối các cơ quan báo chí, truyền thông về đạo đức, về trách nhiệm, về tinh thần phục vụ, sự vất vả của họ cùng những cán bộ thuộc quyền và doanh nghiệp. Nhiều người dân ban đầu không biết, đã nhẹ dạ tin theo, nộp tiền để họ trục lợi... Chỉ đến khi thông tin bị phanh phui, người dân mới hiểu ra bộ mặt đạo đức giả của nhóm cán bộ, doanh nghiệp này.

Thật xót xa, tiếc nuối khi gần đây, các cơ quan chức năng liên tục công bố hàng loạt quyết định kỷ luật đối với không ít cán bộ cấp bộ, cục; bí thư, chủ tịch các tỉnh, huyện, xã... và thậm chí còn cả cán bộ cấp cao hơn. Không ít người cảm thán, mới hôm qua còn ngồi ghế lãnh đạo, ra sức rao giảng đạo đức cho bao người, vậy mà, khi cơ quan chức năng vào cuộc, cơ quan công an điều tra, họ lại hiện nguyên hình chính là những con mọt chúa đục ruỗng mọi ngóc ngách, vươn cái vòi tham lam vơ vét. Những kẻ đạo đức giả đã cấu kết với nhau để làm sai, ký sai, tham ô, tham nhũng, biển thủ... những khoản tiền, những dự án nhiều tỷ đồng, là mồ hôi xương máu, là tiền thuế của nhân dân, doanh nghiệp.

Bóc từng lớp phủ những khuôn mặt đạo đức giả

Tại sao họ lại làm vậy, phải chăng vì khó khăn trong cuộc sống? Không hề! Tất cả cán bộ bị xem xét kỷ luật và bị cơ quan chức năng điều tra thời gian gần đây không hề nghèo, yếu, thiếu trình độ. Họ ban đầu thậm chí còn là những “hạt giống”, người có trình độ, có quá trình phấn đấu rất tốt, có gia đình trong sáng, là nền tảng vững chắc cho sự phát triển, thăng tiến trong sự nghiệp.

Buồn thay, chỉ sau một thời gian làm cán bộ, họ giàu, rất giàu! Điều này tỷ lệ thuận với sự biến chất của cán bộ. Càng biến chất, bộ mặt đạo đức giả lại càng phải dày lên để che đậy những mưu đồ bất chính ngày càng lớn hơn.

Cũng vì thế, phi vụ sau lại lớn hơn phi vụ trước. Số lượng tiền bạc, nhà đất, xe cộ cũng vì thế mà càng nhiều lên. Nhưng tiền, xe, đất, quyền lực... với họ mãi chẳng bao giờ đủ. Dục vọng cá nhân luôn như chiếc thùng không đáy thì càng khiến bộ mặt đạo đức giả ngày càng dày lên với biết bao lớp phủ, khiến bản thân họ cũng khó nhận ra mình của lúc ban đầu, những câu từ sáo rỗng được họ phát ra trái ngược với hành động, khiến nhân dân nghi ngờ, giảm sút niềm tin vào các cơ quan lãnh đạo. Chỉ khi bị kỷ luật, bị điều tra, nhân dân mới nhận ra bộ mặt thật của họ.

Vẫn biết, khi tiến hành đổi mới, kinh tế thị trường phát triển, cùng với cơ hội, những cơn gió lành, thì những làn gió độc, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng khiến nhiều người dân, doanh nghiệp và một bộ phận cán bộ không giữ được mình. Trong cuộc chiến giữa lối sống chân thành và giả dối luôn vô cùng giằng co, phức tạp. Người cán bộ, đảng viên luôn bị giằng xé giữa lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động chân chính, có tự trọng bản thân, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể, của Nhà nước thì nghèo, vất vả với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền thì sẽ giàu có, hưởng lạc. Nhiều cán bộ đã không vượt qua được cái xấu, cái ích kỷ cá nhân, vì thế, họ chọn bộ mặt đạo đức giả che đi tham vọng của mình, từ đó hành động một cách bất chấp để vinh thân phì gia.

Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: Bước vào giai đoạn phát triển mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Biểu hiện cụ thể chính là suy thoái về đạo đức, lối sống như cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, thu lợi cá nhân, thói háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, vô cảm, tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi... được ví như những mọt chúa, mối chúa đẻ ra hàng vạn, hàng triệu mối con, mọt con, từng ngày gặm nhấm, đục ruỗng không ít cơ quan; thậm tệ hơn, chúng đục ruỗng tinh thần, ý chí của một bộ phận cán bộ, đảng viên kém ý chí, kém rèn luyện.  

Sưu tầm