Quá trình công nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới đang tạo ra nhiều đặc điểm mới cho GCCN.
Tác nhân hàng đầu làm biến đổi GCCN hiển nhiên là các cuộc cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn hơn, yêu cầu đa diện hơn. Trong hơn 100 năm gần đây nhất người ta đã thấy 3 cuộc cách mạng công nghiệp: lần thứ hai, lần thứ ba và lần thứ tư. Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng đã tiến hành 2 kiểu công nghiệp hóa là công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN) và công nghiệp hóa XHCN. Các cuộc cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn dần: Từ “đại công nghiệp” tức là từ “công nghiệp 1.0” đến “công nghiệp 2.0” mất gần hai thế kỷ; nhưng từ “công nghiệp 2.0” đến “công nghiệp 3.0” chỉ khoảng một thế kỷ; còn từ “công nghiệp 3.0” đến “công nghiệp 4.0” chỉ mất 30 năm!
Công nghiệp hóa theo kiểu mới với các đặc trưng: Rút ngắn (diễn ra không tuần tự từ A đến Z mà phải tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia); gắn với hiện đại hóa (sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển bền vững về xã hội và môi trường, sinh thái...); nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ hơn; các yêu cầu ngoài công nghiệp như tính nhân văn, bảo vệ môi trường, sinh thái, tài nguyên cao hơn; và hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn...
Theo đó, lý luận “GCCN là sản phẩm và chủ thể của đại công nghiệp” đã được bổ sung thêm nhiều nhận thức lý luận mới. Sự phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế thế giới, chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thế và chấp nhận hợp tác, hội nhập quốc tế. Quá trình sản xuất hàng hóa công nghiệp của công nhân buộc phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế, đáp ứng những nhu cầu “khó tính” của thị trường... Và kết quả là một sản phẩm công nghiệp được công nhân tạo ra không chỉ là kết quả của công nghệ - kỹ thuật mà còn là sự tích hợp những giá trị kinh tế, xã hội, môi trường. Nhiều nước phát triển đã ứng dụng cơ chế quản lý linh hoạt (FMS) trong công nghiệp để khuyến khích tính linh hoạt, sáng tạo, tối ưu hóa quá trình sản xuất bằng nhiều nguyên tắc, như thường xuyên đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa năng lượng và vật tư, hạn chế thời gian lưu kho bãi, linh hoạt thời gian và địa điểm làm việc (chế độ làm việc tại nhà). Công nhân hiện đại không còn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền sản xuất TBCN” mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn.
Sự phát triển của GCCN ở “các nước đang chuyển đổi” hiện nay còn là kết quả của sự kết hợp các cơ chế, quy luật của kinh tế thị trường với vai trò của nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước; với chính sách đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực, dần chuyển dịch mô hình kinh tế từ phát triển “bề rộng” là chủ yếu sang phát triển theo “chiều sâu”. Công nhân không chỉ là sản phẩm của công nghiệp hóa mà còn là kết quả tổng thành của chế độ chính trị và cơ chế kinh tế thị trường. Trình độ làm chủ và sáng tạo công nghệ, tư duy kinh tế thị trường, năng lực tổ chức quản lý của GCCN ở các nước cải cách, đổi mới đều đã có bước tiến lớn. Quan tâm đến lợi ích chính đáng của người lao động, kết hợp hài hòa lợi ích của người lao động với lợi ích của tập thể và lợi ích của xã hội..., vừa là tư duy kinh tế phù hợp, vừa là sự thể hiện tính chất XHCN trong phát triển.
Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của GCCN. Chế độ XHCN đã tạo ra một chất lượng mới, quy mô và tốc độ mới cho công nghiệp hóa. Ngay trong kiểu công nghiệp hóa này cũng có 2 trình độ là công nghiệp hóa theo mô hình công nghiệp hóa cũ và theo mô hình công nghiệp hóa mới. Hiện nay, cùng với lý luận công nghiệp hóa mới của thế giới và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước XHCN có thể thông qua hợp tác - phân công lao động quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa. Chính CNTB cũng cần đến CNXH và tìm đến để hợp tác trong sản xuất toàn cầu. Đổi mới tư duy chính trị, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế... là xu thế chung của nhiều quốc gia. Giai cấp công nhân đã xuất hiện với số lượng, chất lượng và diện mạo mới không chỉ từ công nghiệp hóa mà còn từ cải cách, đổi mới. Nhưng quan trọng hơn, là khả năng phát triển, cơ động xã hội của GCCN và các giai cấp khác. Trước đây, như nhận định của một tác giả Trung Quốc: “Nhà nước trao cho GCCN địa vị giai cấp lãnh đạo và thực hiện chính sách phúc lợi toàn xã hội khiến cho GCCN có được địa vị xã hội và kinh tế “trời phú” rất cao, ở vào vị trí trung tâm trong toàn bộ kết cấu xã hội, được hưởng một loạt quyền lợi đặc thù, có sự khác biệt với giai cấp nông dân trên nhiều phương diện và cao hơn nhiều so với nông dân”(9). Nhưng hiện nay, “thân phận “trời phú” của GCCN Trung Quốc đương đại bị phá vỡ, chuyển biến từ tượng trưng thân phận sang khái niệm nghề nghiệp”. “Phương thức hợp đồng hóa nghề nghiệp” thay cho chế độ công nhân, viên chức vĩnh viễn; quan hệ lợi ích kinh tế thay cho quan hệ hành chính, “từ trạng thái do quá khứ lưu truyền đến trạng thái do khế ước quy định”(10). Rõ ràng, công nhân hiện nay không chỉ là sản phẩm của công nghiệp hóa mà còn là sản phẩm của đổi mới chính trị. Trong một số trường hợp, chính trị, chính sách đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp và tạo biến đổi sâu sắc đối với GCCN.
Kinh tế thị trường làm cho cơ cấu GCCN ngày càng đa dạng hơn.
Nhận thức mới về vai trò của kinh tế thị trường là tạo ra một không gian rộng mở hơn cho sự phát triển về nhiều mặt của GCCN với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia quá trình công nghiệp hóa. Từ thực tế này, lý luận về GCCN hiện đại được bổ sung, phát triển thêm. Chẳng hạn, hiệu quả sản xuất - kinh doanh, năng suất lao động, lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chuỗi giá trị toàn cầu, chủ động hội nhập, tổ chức chính trị - xã hội của công nhân trong bối cảnh mới,... đều là những vấn đề lý luận mới mẻ và rộng lớn, phức tạp hơn.
Có thể, khái niệm “GCCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở giai đoạn cải cách, đổi mới” sẽ là một vấn đề mà lý luận về GCCN đang tích hợp thêm các nội hàm từ thực tiễn hiện nay. Có một số dấu hiệu khá rõ là, trên thế giới đang có những khái niệm “lưỡng tính” để phản ánh trình độ như “công nhân tri thức”, “công nhân - trí thức”, “trí thức - công nhân” hoặc ở Trung Quốc có khái niệm “nông dân - công” để chỉ tính chất đang chuyển biến giai tầng; lại cũng có những khái niệm mang tính chi tiết hơn về vị trí mà họ tham gia: công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước, công nhân trong thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là các khái niệm mang tính phân lớp nghề nghiệp, như công nhân cổ cồn trắng, cổ cồn xanh, cổ cồn vàng, cổ cồn nâu(11). Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nhân làm việc trong lĩnh vực công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); theo trình độ công nghệ (công nhân áo xanh - công nhân của công nghiệp truyền thống; công nhân áo trắng - công nhân có trình độ đại học, cao đẳng, chủ yếu làm công việc điều hành, quản lý sản xuất; công nhân áo vàng - công nhân của các ngành công nghệ mới, công nhân áo tím - công nhân dịch vụ - lao động đơn giản như gác cầu thang, vệ sinh đô thị...). Lại có cả những phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp lao động tại nhà để sống và công nhân không có cổ phần, chỉ sống bằng sức lao động của mình). Phân loại công nhân theo chế độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng XHCN; ở các nước G7; ở các nước đang phát triển...).
Một bộ phận lớn công nhân hiện nay xuất thân từ đô thị.
Giai cấp công nhân thời C. Mác là giai cấp lao động làm thuê, bị bóc lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn. Nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân. Trước đây, các vùng tụ cư trong lịch sử nhân loại thường ở lưu vực các con sông lớn, nơi thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và có nguồn nước cho sinh hoạt. Ngày nay, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những thành phố lớn trên sa mạc, như Lát Ve-gát (LasVegas) cùng nhiều đô thị ở Trung Đông..., chúng hầu như được xây dựng và phát triển dựa trên nguyên lý mới là khắc phục giới hạn của tự nhiên, nhân tạo hóa các điều kiện sống bằng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là một quá trình gắn liền với phát triển văn minh và công nghệ. Đó là những thành phố được dịch vụ bởi công nghệ hiện đại. Nó cần đến công nghệ mới, công nghiệp và công nhân.
Năm 2005, khu vực có mức đô thị hóa cao nhất là ở Bắc Mỹ với 82% số dân sống ở đô thị, tiếp đó là Mỹ La-tinh và vùng Ca-ri-bê chiếm 80% và châu Âu là 73%. Báo cáo “Nhìn lại triển vọng đô thị hóa thế giới” của Liên hợp quốc năm 2005, mô tả “thế kỷ XX đã chứng kiến quá trình đô thị hóa nhanh chóng của cư dân thế giới” với tỷ lệ cư dân đô thị tăng từ 13% (220 triệu người) năm 1900 lên 29% (732 triệu người) năm 1950 và 49% (3,2 tỷ người) năm 2005. Báo cáo này cũng ước tính rằng vào năm 2030 con số đó sẽ là 60% (4,9 tỷ người).
Đô thị hóa làm xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, vốn có mặt từ thời “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, gồm “bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê...”(12). Song, hiện nay họ đông đúc hơn, đa dạng hơn với hàng nghìn ngành, nghề khác nhau. Xét về cơ cấu nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu đều thấy sự tăng lên của những nhóm lao động dịch vụ mới. Họ là những người kết hợp cả lao động chân tay với lao động trí óc. Trong các quốc gia phát triển đã xuất hiện một cơ cấu xã hội mới với vai trò mới của trí thức, công nhân trí thức. Cũng bởi vậy, ở nhiều nước phát triển hiện nay (các nước G7 lao động nông nghiệp hoặc nông dân chỉ chiếm từ 2% - 3% lực lượng lao động) liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân đã không còn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên minh giữa những người lao động, mà chủ yếu là hai nhóm lao động đông đảo ở đô thị là sản xuất công nghiệp và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp.
Đô thị là nơi mà đấu tranh giai cấp hiện đại bộc lộ tính điển hình của nó. Ph. Ăng-ghen viết: “Các thành phố lớn là nơi bắt nguồn của phong trào công nhân: nơi đây công nhân lần đầu tiên đã bắt đầu suy nghĩ về tình cảnh của mình và đấu tranh để thay đổi nó, nơi đây sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản lần đầu đã biểu lộ ra, nơi đây những liên đoàn lao động, phong trào Hiến chương và chủ nghĩa xã hội đã ra đời...”(13). Và quan trọng hơn: “Cách mạng công nghiệp tập trung tư sản và vô sản vào các thành thị lớn, ở đó sự phát triển công nghiệp là có lợi hơn cả, và sự tập trung đông đảo quần chúng vào một chỗ như vậy làm cho vô sản nhận thức được sức mạnh của mình”(14). Thực tiễn chính trị hiện nay cũng đang xác nhận rằng, GCCN ở các đô thị sẽ là lực lượng quyết định diện mạo của chính trị thế kỷ XXI./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét