Tự do báo chí ở Việt Nam luôn là đề tài để những tổ chức phi Chính phủ không có thiện chí với Việt Nam nhắc tới với những thông tin không chính xác. Minh chứng rõ nét đó là Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) “lần thứ n” xếp Việt Nam ở vị trí 174/180 quốc gia và vùng lãnh thổ về Chỉ số tự do báo chí.
Hoạt động báo chí của Việt Nam khá thoải mái
nhưng RSF vẫn xuyên tạc Việt Nam không có “tự do báo chí”.
Được biết, Tổ chức Phóng viên không biên giới là
một tổ chức phi chính phủ hoạt động toàn cầu, hoạt động dựa trên Điều 19 của
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền với mục đích bảo vệ tự do báo chí trên thế giới,
chống kiểm duyệt và tạo áp lực giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Tổ chức
này có tôn chỉ mục đích mỹ miều và cao quý là vậy, thế nhưng những hoạt động
của tổ chức này dường như đang đi ngược lại mục đích của tổ chức khi được thành
lập.
Thân sinh là một tổ chức phi chính phủ, tuy
nhiên quỹ hoạt động của RSF lại đến phần lớn từ Chính phủ Pháp và Chính phủ Mỹ
thông qua nhiều con đường khác nhau như thông qua Quỹ quốc gia hỗ trợ dân chủ
(NED). Tuy mục đích hoạt động là bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, nhưng RSF
không đưa ra khái niệm về “tự do báo chí”, tức là tổ chức này đã không hình
thành được một định nghĩa và cách hiểu cơ bản về tự do báo chí, những yếu tố
được tổ chức này sử dụng để đánh giá tự do của một nền báo chí không cân nhắc
đến các yếu tố văn hóa, xã hội, nhận thức của từng quốc gia riêng biệt mà những
đánh giá và xếp hạng của tổ chức này luôn dựa vào “danh sách đen” của Bộ Ngoại
giao Mỹ, mà trong “danh sách đen” này luôn có tên Việt Nam. Việc lấy tiêu chuẩn
của “tự do báo chí” của Mỹ và phương Tây để đánh giá tự do báo chí toàn cầu đã
khiến Việt Nam và những nước như Iran, Syria, Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc đã
nhiều lần “bức xúc” trước quy cách đánh giá “vô thiên vô pháp” và vô cùng phiến
diện của tổ chức này.
Ở mặt khác, Tổ chức Phóng viên không biên giới
lại “giả mù, giả điếc”, không đưa ra bất kỳ báo cáo nào về hoạt động chống lại
nhà báo của Mỹ và các đồng minh như việc 176 người hoạt động trên lĩnh vực
truyền thông bị giết hại tại Philippines từ năm 1986 đến nay, hay việc 16 nhà
báo bị giết chết trong một lần NATO không kích Đài truyền hình Nam Tư (RTS) cũng
tuyệt nhiên không được nhắc đến trong bất cứ một bản báo cáo nào. Có vậy chúng
ta mới có thể thấy sức mạnh của “đồng đôla” có thể xoay chuyển cục diện của một
tổ chức phi chỉnh phủ hoặc tiến xa hơn đó là sức mạnh “đổi trắng thay đen” một
cách trắng trợn.
Nghe đến việc Việt Nam xếp hạng gần áp chót bảng
xếp hạng về chỉ số tự do báo chí, có lẽ những người “bức xúc” nhất phải kể đến
là những người đã và đang hoạt động trong ngành báo chí, truyền thông. Bởi đánh
giá như vậy không khác gì “xóa sổ” những bài viết trích dịch thông tin trên báo
chí phương Tây mà giờ đây lại bị cho là hoạt động trong môi trường “không có tự
do báo chí”. Tiếp theo là 816 cơ quan báo chí, 17.161 nhà báo và hơn 40.000
cộng tác viên báo chí là những đối tượng bị “tổn thương sâu sắc” bởi cách xếp
hạng chủ quan này.
Vì cách đánh giá phiến diện đó, Tổ chức Phóng
viên không biên giới chắc chắn không biết Việt Nam là quốc gia thành viên có
trách nhiệm của Liên hợp quốc, sớm tham gia vào các điều ước quốc tế về bảo đảm
các quyền cơ bản của con người và quyền công dân, trong đó có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí. Trên phương diện pháp lý, tổ chức này ắt hẳn không nắm
được tất cả các bản Hiến pháp của nước ta (các năm 1946, 1959, 1980, 1992,
2013) đều có những quy định về tự do ngôn luận, tự do báo chí và khẳng định đây
là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, của mọi công dân. Ở mỗi bản
Hiến pháp, nội dung này được kế thừa, phát triển phù hợp từng điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể của nước ta. Từ ngay Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1946 đã quy định một cách khái quát quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí của công dân: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất
bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong
nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được phát triển xuyên suốt
trong các bản Hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được khẳng định tại Điều 25
Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định”. Như vậy, qua các lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Việt Nam luôn
khẳng định, tôn trọng và có quy định bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí chân chính của nhân dân.
Nội hàm của quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí của công dân tiếp tục được thể hiện trong các Điều 10 và
Điều 11 Luật Báo chí năm 2016, theo đó công dân đầy đủ có các quyền tự do báo
chí: Sáng tạo tác phẩm báo chí; Cung cấp thông tin cho báo chí; Phản hồi thông
tin trên báo chí; Tiếp cận thông tin báo chí; Liên kết với cơ quan báo chí thực
hiện sản phẩm báo chí; In, phát hành báo in. Còn nếu RSF vẫn còn “ngoan cố”
đánh giá sai về tình hình tự do báo chí thì Điều 13, Luật Báo chí năm 2016 sẽ
vạch trần sự “lếu láo” của bảng xếp hạng kia, theo đó đã ghi rõ: “Báo chí không
bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét