Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2022

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢN CHẤT CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN

     Pháp nhân chỉ là chủ thể của trách nhiệm hình sự (TNHS) hay là chủ thể của tội phạm? Đây là vấn đề bản chất của việc quy định TNHS pháp nhân và là nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Việc trả lời được câu hỏi này là vấn đề then chốt để xây dựng hay không xây dựng hệ thống lý luận đặc thù trong khoa học pháp lý hình sự cho pháp nhân; cũng như có xây dựng các quy định pháp luật hình sự đặc thù cho pháp nhân không, hay chỉ sử dụng các quy định pháp luật hình sự hiện hành đang áp dụng cho thể nhân (cá nhân) để áp dụng cho pháp nhân.        

 1. Quan điểm xác định pháp nhân chỉ là chủ thể của trách nhiệm hình sự

    Quan điểm xác định pháp nhân chỉ là chủ thể của trách nhiệm hình sự dựa trên cơ sở thực tế “không có” hay “không thể nói đến” hành vi phạm tội của pháp nhân và khi đã không có hành vi phạm tội của pháp nhân, thì cũng không thể nói đến lỗi của pháp nhân. Không có lỗi, cũng không có hành vi, và như vậy, pháp nhân không thể (bị coi) là chủ thể của tội phạm. Một cách ngắn gọn hơn, pháp nhân không phải chủ thể tội phạm vì pháp nhân không thực hiện hành vi phạm tội và không có lỗi. GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa trong bài viết “Khái niệm tội phạm và việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015” khẳng định pháp nhân thương mại chỉ là chủ thể của TNHS về tội phạm (do cá nhân thực hiện) mà không phải là chủ thể tội phạm như cá nhân và tội phạm chỉ có một nhưng chủ thể phải chịu TNHS về tội phạm đó có thể là hai - cá nhân thực hiện và pháp nhân của cá nhân thực hiện.  

    Việc pháp nhân bị chịu TNHS là xuất phát từ việc pháp nhân đó có mối quan hệ với cá nhân người phạm tội và với tội phạm mà người này thực hiện; khác với cơ sở TNHS của cá nhân chính là việc người này thực hiện hành vi được quy định là tội phạm trong Bộ luật hình sự (BLHS). Tác giả kết luận việc BLHS năm 2015 ghi nhận “pháp nhân thương mại phạm tội” chỉ có nghĩa là pháp nhân thương mại (PNTM) phải chịu TNHS về tội phạm do cá nhân thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện nêu tại Điều 75 và Điều 76 của BLHS thì bị coi là “phạm tội”.

    Đồng nhất với quan điểm nêu trên, tác giả Nguyễn Văn Hương trong bài viết “Trách nhiệm hình sự của PNTM theo BLHS năm 2015” khẳng định PNTM không phải là chủ thể của tội phạm và chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con người. Tác giả cho rằng hành vi phạm tội “nhân danh pháp nhân”, “vì lợi ích của pháp nhân”, “có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân” chỉ có thể là hành vi của cá nhân. PNTM phải chịu TNHS là vì đã chỉ đạo, điều hành, cho phép,... và được lợi từ hành vi phạm tội của cá nhân. Cơ sở buộc pháp nhân thương mại chịu TNHS chính là mối quan hệ đặc biệt giữa pháp nhân với cá nhân và tội phạm mà người này thực hiện khi có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận và vì lợi ích của pháp nhân. Tức là PNTM “được coi”, “bị quy kết” là phạm tội khi có hành vi của con người được PNTM ủy quyền, giao nhiệm vụ (đã thực hiện hành vi phạm tội). Quy định có tính chất bắc cầu này cho thấy, PNTM chỉ là đối tượng bị “coi”, bị “quy kết”, bị “áp đặt” là phạm tội và phải chịu TNHS do hành vi phạm tội của cá nhân trong pháp nhân thực hiện.

    2. Quan điểm xác định pháp nhân là chủ thể của tội phạm

Pháp nhân là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng của mình, được xử sự tự do và hưởng quyền tự chủ của cá nhân con người cụ thể và chính vì thế nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi. Trong bài viết khác, tác giả Trịnh Quốc Toản cho rằng, về bản chất các pháp nhân hoàn toàn có khả năng phạm tội thông qua các hoạt động và ý chí tập thể của các thành viên. Đó là những người lãnh đạo, đại diện của pháp nhân, người vạch ra, người chỉ đạo hoặc người thực hiện chính sách của pháp nhân, thì tội phạm được coi là do chính pháp nhân thực hiện.

     3. Một số kinh nghiệm quốc tế và gợi ý cho Việt Nam

     Vấn đề bản chất của việc quy định TNHS pháp nhân hay trả lời câu hỏi pháp nhân là chủ thể của tội phạm hay chỉ là chủ thể của TNHS cũng là vấn đề cơ bản được các học giả nước ngoài quan tâm, tranh luận từ lâu. Luận án tiến sỹ “Corporate Criminal Liability: An Analytical Study with Special Reference to Penal Laws in India” của Abhinandan Bassi đã đưa ra các câu hỏi nghiên cứu cơ bản: Pháp nhân có năng lực thực hiện tội phạm không? Các nguyên tắc nào để quy lỗi nhằm xác định TNHS của pháp nhân? Có cần xây dựng các tội phạm của pháp nhân (corporate crimes) một cách riêng rẽ (với các tội phạm của cá nhân)? Về mặt lý luận cơ bản, có hợp lý hay không khi sử dụng hệ thống tư pháp hình sự của cá nhân để áp dụng cho pháp nhân?. Tác giả Markus Wagner trong bài viết “Corporate Criminal Liability: National and International Responses” nêu lên nội dung cơ bản về TNHS của tổ chức tại Anh. Ghi nhận TNHS của pháp nhân bắt đầu vào năm 1842 bởi các tòa án của Anh. Ban đầu, pháp nhân chỉ chịu TNHS đối với các tội phạm không đòi hỏi yếu tố ý chí (mens rea).

    Theo án lệ của Anh, có ba loại tội phạm này là các tội gây mất an toàn cho cộng đồng, tội phỉ báng và tội xúc phạm tòa án. Tiếp theo, xác lập TNHS của pháp nhân đối với các tội phạm đòi hỏi yếu tố ý chí (mens rea): Năm 1915, từ phán quyết một vụ án dân sự, Thượng nghị viện đã đề ra một nguyên tắc chung để quy yếu tố ý chí cho pháp nhân, đó là nguyên tắc “ý chí điều hành”. Phán quyết của vụ án đó cho rằng, một công ty là một thực thể trừu tượng và không có ý thức. Người ta chỉ có thể nhận thức được về hoạt động và ý chí chỉ đạo của công ty thông qua hành vi và ý chí của một người cụ thể được xem là người thực sự có khả năng thể  hiện tư tưởng chỉ đạo và ý chí của công ty, yếu tố thể hiện bản ngã và đặc tính của công ty. Theo nguyên tắc ý chí điều hành, các hành vi và ý chí một số vị trí lãnh đạo cấp cao trong pháp nhân (những người thực hiện các chức năng chỉ đạo, điều hành) bị xem như hành vi và ý chí của pháp nhân. Trong một án lệ khác, Thượng nghị viện đã nhận định rằng một công ty không thể có các nhận thức và ý chí để kiểm soát nhận thức như con người, công ty đó chỉ có thể hành động thông qua con người, con người đó nói và làm không phải với tư cách cá nhân mà với tư cách của công ty và tư tưởng chỉ đạo hoạt động của người đó là ý chí của công ty.

     Ngược lại, đồng tác giả Fisse và Braithwaite trong bài viết “The Allocation of Responsibility for Corporate Crime: Individualism, Collectivism and Accountability” đã đưa ra các quan điểm, lập luận dựa trên cơ sở phương pháp toàn thể luận (methodological holism hay collectivism) để trả lời, phản bác lại giả thuyết dựa trên nền tảng phương pháp cá thể luận (methodological individualism). Phương pháp cá thể luận cho rằng, chỉ có các cá nhân thực hiện hành vi và chỉ có các cá nhân chịu trách nhiệm; hành vi hoặc trách nhiệm của pháp nhân chỉ là sự tập hợp các hành vi hoặc trách nhiệm của các cá nhân; nói cách khác, phương pháp này tin rằng “các pháp nhân không thực hiện tội phạm; chỉ con người thực hiện”.

    Ngược lại, phương pháp toàn thể luận cho rằng, các pháp nhân được xem như cấu trúc đưa ra quyết định (decision-making structure). Các pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với một quyết định khi và bởi vì quyết định này thể hiện chính sách của pháp nhân (corporate policy) và thể hiện một tiến trình đưa ra quyết định của pháp nhân mà tự thân pháp nhân lựa chọn. Đồng thời, chỉ có thể nói pháp nhân không sở hữu một ý chí giống như ý chí của bộ não con người, nhưng pháp nhân thể hiện một loại ý chí đặc biệt “chính sách của pháp nhân”. Chính sách này không phản ánh đơn giản ý chí của các lãnh đạo, giám đốc hoặc cán bộ quản lý của pháp nhân mà nó thể hiện ý tưởng về một chiến lược đặc thù của pháp nhân.   

    Pháp nhân giống như con người cá nhân có thể đưa ra các lý do hợp lý cho các quyết định của nó; cũng như có năng lực để thay đổi các mục tiêu, chính sách và thay đổi các tiến trình ra quyết định trực tiếp liên quan đến các mục tiêu, chính sách này. Tác giả John Braithwaite nhận định “Khoa học hình sự và tội phạm học vẫn trong khuôn khổ các lý thuyết cá thể hóa [TNHS] đã tồn tại trong thời kỳ dài”. Brent Fisse xem việc không đủ năng lực để giải quyết vấn đề lỗi của pháp nhân là “lỗ hổng lớn nhất trong lý thuyết luật hình sự về TNHS của pháp nhân”. Do vậy, đã đề xuất một lý thuyết/ tiêu chuẩn về TNHS của pháp nhân sử dụng một mô hình nhận thức mới để xác định và chứng minh ý chí của pháp nhân. Lý thuyết này cho rằng, mỗi một pháp nhân có một đặc tính xác định và khác biệt (ethos). Nhà nước có thể buộc tội một pháp nhân theo lý thuyết này nếu chứng minh được rằng “ethos” của pháp nhân đã khuyến khích các nhân viên của pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội. Cốt lõi của cách tiếp cận này là việc cho rằng pháp nhân sở hữu một đặc tính có tính độc lập với các cá nhân cụ thể - người lãnh đạo, quản lý hay làm việc cho pháp nhân đó.

 

    Từ các phân tích trên, có thể nói, nếu dựa trên cở sở các lý thuyết truyền thống thì pháp nhân chịu TNHS bởi “được coi”, “bị quy kết” từ hành vi phạm tội và lỗi của cá nhân; pháp nhân không thực hiện hành vi phạm tội và không có ý chí phạm tội (không có lỗi); do vậy, pháp nhân chỉ là chủ thể chịu TNHS. Ngược lại, nếu xây dựng TNHS của pháp nhân trên cơ sở các lý thuyết mới thì pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội thông qua cấu trúc [tự] đưa ra quyết định (decision-making structure) và pháp nhân có ý chí bởi pháp nhân có có một đặc tính xác định và khác biệt (ethos) đã khuyến khích các nhân viên của pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội; do vậy, pháp nhân là chủ thể của tội phạm    Quay trở lại pháp luật hình sự của Việt Nam, khi nghiên cứu, rà soát các quy định của BLHS năm 2015 về TNHS của pháp nhân, chúng ta thấy rằng, chưa có sự rõ ràng trong việc xác định bản chất của việc quy định TNHS của pháp nhân hay xác định pháp nhân là chủ thể tội phạm hay chỉ là chủ thể TNHS. Trên cơ sở so sánh giữa luật hình sự Anh và Việt Nam, tác giả Đào Lệ Thu cho rằng “luật hình sự Việt Nam chưa thể hiện bản chất TNHS của pháp nhân thương mại trong một cách rõ ràng”. Cụ thể, một số quy định cho thấy, đó là loại hình TNHS phát sinh trên cơ sở hành vi phạm tội của thể nhân; một số quy định khác lại khiến pháp nhân thương mại bị biến thành một chủ thể của tội phạm độc lập, tách biệt khỏi người phạm tội và chịu TNHS trên cơ sở tội phạm do chính mình thực hiện(19). Điều này cũng được PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí chia sẻ: Trên cơ sở tiếp cận PNTM là chủ thể tội phạm, các quy định của BLHS năm 2015 tạo ra “cảm giác” có hai bộ luật ở cùng một bộ luật, trong đó một bộ luật quy định về cá nhân phạm tội và một bộ luật quy định về pháp nhân phạm tội,... Ngược lại, nếu quan niệm pháp nhân là chủ thể của TNHS chứ không phải là chủ thể tội phạm sẽ khắc phục được “cảm giác” hai trong một nêu trên và những mẫu thuẫn của BLHS năm 2015 như gán các khách thể tội phạm cho pháp nhân không thể xâm hại hoặc phải xác định dấu hiệu lỗi của pháp nhân khi phạm tội./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét