Đồng chí Trường Chinh (1907-1988), tên thật là Đặng Xuân
Khu, sinh ngày 9 tháng 2 năm 1907, ở thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định; là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Đồng chí Trường Chinh sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước
ở một vùng quê giàu truyền thống lịch sử văn hoá. Truyền thống của quê hương và
gia đình đã giáo dục, rèn luyện và hun đúc nên lý tưởng cách mạng của đồng chí.
Năm 18 tuổi, đồng chí đã tham gia phong trào yêu nước rồi gia nhập Việt Nam
Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, từ một người yêu nước đồng chí đã trở thành
người cộng sản. Trong mười năm hoạt động đầu tiên, khi bị bắt, ở tù cũng như
lúc hoạt động công khai, đồng chí đã đem hết nghị lực, trí tuệ và nhiệt tình
cách mạng tham gia truyền bá chủ trường, đường lối của Đảng, góp phần bồi dưỡng
lý luận và tinh thần cách mạng cho đông đảo cán bộ và nhân dân, trong đó có
nhiều người đã trở thành nhân vật cốt cán của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí
Trường Chinh (bên phải), Phạm Văn Đồng (bên trái),
Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) quyết định mở Chiến dịch Điện
Biên Phủ, năm 1954. Ảnh: Tư liệu
Đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng
dân tộc
Sau Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, địch
tăng cường khủng bố, hầu hết các Uỷ viên Trung ương bị bắt, bị giết, nhiều tổ
chức đảng và quần chúng bị phá vỡ. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do Hội
nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940) cử ra chỉ còn lại có 3 người. Với cương vị
Quyền Tổng Bí thư ở giai đoạn cực kỳ khó khăn này, đồng chí đã cử cán bộ đi
chắp nối liên lạc, khôi phục tổ chức; cử người sang Quảng Tây liên hệ và đón
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Phong trào cách mạng dần dần được khôi phục và
củng cố, chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng tháng Tám. Tại Hội nghị Trung ương
lần thứ 8, đồng chí Trường Chinh được bầu chính thức làm Tổng Bí thư của Đảng.
Sau Hội nghị, đồng chí rời Pắc Bó về xuôi trực tiếp chỉ đạo phong trào, đề ra
sáng kiến lập hệ thống liên hoàn các An toàn khu (ATK). Từ tháng 8/1942 đến
tháng 7/1944 , lãnh tụ Hồ Chí Minh đi Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới
Thạch bắt giam 14 tháng; đông chí Hoàng Văn Thụ bị địch bắt và xử bắn; đồng chí
Hoàng Quốc Việt được cử đi công tác nước ngoài. Trách nhiệm to lớn của Đảng và
cách mạng gần như đặt lên vai đồng chí Tổng Bí thư. Với trí tuệ thông minh, sắc
sảo, khả năng ứng phó nhanh nhạy, đồng chí cùng Trung ương đã có những quyết
định quan trọng đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên những bước nhảy vọt. Nổi bật
nhất là việc đồng chí dự báo việc Nhật - Pháp bắn nhau và sớm chủ trì Hội nghị
Thường vụ Trung ương ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta”. Cùng với “Lời kêu gọi” của Nguyễn Ái Quốc, Chỉ thị đã chỉ rõ thời cơ đang
đến và có tác dụng quyết định trong việc động viên hướng dẫn toàn Đảng, toàn
dân trong cao trào chống Nhật cứu nước. Tại Đại hội quốc dân ở Tân Trào, đồng
chí lại được cử phụ trách Uỷ ban tổng khởi nghĩa toàn quốc và 11 giờ đêm ngày
13/8/1945, Uỷ ban đã phát lệnh tổng khởi nghĩa. Chỉ trong thời gian ngắn, Cách
mạng Tháng Tám đã thành công, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cống
hiến nổi bật của đồng chí Trường Chinh trong giai đoạn này chính là cùng với
Bác Hồ đề ra đường lối của giai đoạn cách mạng mới ở Hội nghị Trung ương lần
thứ 8 và đồng chí Trường Chinh là người trực tiếp chỉ đạo tổ chức thực hiện,
đưa Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến thành công.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí cùng tập thể Bộ Chính trị
trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến. Quan điểm của Đảng về cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ được đồng chí Trường Chinh giải thích và phát triển
trong tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Tác phẩm đã trình bày một
cách sáng tỏ các chặng đường của cuộc kháng chiến, củng cố niềm tin và nâng cao
ý chí của mọi người. Trong thực tiễn, không những đồng chí chú trọng chỉ đạo
nhiệm vụ kháng chiến, mà còn hết sức chú ý đến mặt kiến quốc, từng bước thực
hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” chuẩn bị những tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn đó, cùng với thực tiễn
sinh động, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đã giành thắng
lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với
cương vị là Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, rồi sau đó là Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước, đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính Trị có những đóng góp quan trọng
vào việc chuẩn bị và đưa ra những quyết sách chiến lược, đưa cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn, giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ
quốc.
Người đặt nền móng cho công cuộc đổi mới
Tổng Bí thư Trường Chinh với các đại
biểu dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứVI.
Cống hiến đặc biệt quan trọng của đồng chí
Tổng Bí thư Trường Chinh đã đi vào tiềm thức của nhân dân ta chính là vì đồng
chí đã đặt nền móng cho công cuộc đổi mới. Năm 1986, ở cương vị Tổng Bí thư,
đồng chí đã sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước, yêu
cầu và nguyện vọng của nhân dân, đồng chí đã đề ra chủ trương đổi mới. Trong
quá trình chuẩn bị Đại hội VI, đồng chí đã nói “Đối với nước ta, đổi mới là yêu
cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn”, “ Đổi mới hay là chết”
đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống. Đại hội VI đã trở thành đại hội đổi mới,
đánh dấu một mốc son mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam, một bước ngoặt về
đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta. Trong công tác dân vận của Đảng, đồng chí
Trường Chinh, luôn luôn yêu cầu và khẳng định các quan điểm cơ bản sau đây:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Nhân dân là lực lượng, là người tiến hành mọi nhiệm vụ,
mọi công việc của sự nghiệp cách mạng. Đảng ta phải luôn luôn lấy mục tiêu vì
hạnh phúc của Nhân dân làm trọng.
Hai là, đổi mới tư duy của Đảng đối với công tác
quần chúng, công tác Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; tăng cường xây dựng,
củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, giữa Nhân dân với Đảng;
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước.
Ba là, trong xã hội ta do nhân dân làm chủ, công
tác vận động và tổ chức nhân nhân chỉ có thể thành công khi trước hết bảo vệ và
đáp ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, kết hợp hài hòa với
lợi ích của tập thể, của Nhà nước và toàn xã hội, gắn chặt quyền lợi và nghĩa
vụ công dân.
Bốn là, phải dựa vào dân để xây dựng chỉnh đốn
Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đồng thời, phê phán tệ quan
liêu, xa rời quần chúng trong cán bộ, đảng viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo hướng sát với
thực tế địa phương, cơ sở phù hợp với từng đối tượng quần chúng và các giai
tầng trong xã hội; lãnh đạo chặt chẽ trong công tác phát triển các tổ chức quần
chúng và tự đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể
nhân dân một cách thiết thực, hiệu quả, tránh bệnh hình thức chủ nghĩa.
Năm là, công tác vận động quần chúng là trách
nhiệm chung của toàn Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Đảng
làm công tác dân vận bằng hệ thống tổ chức của Đảng và bằng đội ngũ cán bộ,
đảng viên; đồng thời, thông qua hệ thống Nhà nước, hệ thống Mặt trận và các
đoàn thể là cầu nối để thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân
dân với Đảng. Đảng cần quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nhất là cán bộ Đoàn thanh niên; lãnh đạo chặt
chẽ các tổ chức quần chúng tự đổi mới nội dung và phương thức hoạt động cho phù
hợp sở thích, tâm lý, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và nhân dân.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí
Trường Chinh đã thể hiện là một học trò xuất sắc và là một trong những người
bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí đã đến với cách mạng
thông qua các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc và gặp gỡ đầu tiên giữa lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc với đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã
có ý nghĩa quan trọng, góp phần vào thành công Hội nghị, đánh dấu sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên
hết. Kể từ đó, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn soi sáng cho mọi hoạt động lý luận và
thực tiễn của đồng chí Trường Chinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì hạnh
phúc của nhân dân.
Đánh giá về công lao của đồng chí Trường
Chinh, Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã nêu: “Dưới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trên cương vị là
Tổng Bí thư của Đảng, từ năm 1941, cùng với Ban Chấp hành Trung ương và Bộ
Chính trị, đồng chí đã có nhiều quyết sách đúng đắn, sáng tạo, nhất là trong
những bước ngoặt của cách mạng, vai trò của đồng chí nổi bật là một trong những
người lãnh đạo kiệt xuất đã đưa cuộc Cách mạng tháng Tám đến thành công và đưa
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng”.
Nhà lý luận, nhà văn hoá lớn.
Đồng chí Trường
Chinh là một trong những nhà lý luận chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đồng
chí đã để lại nhiều tác phẩm lý luận có giá trị “Chống chủ nghĩa cải lương”
(1935); “Vấn đề dân cày” (viết chung với đồng chí Võ Nguyên Giáp năm 1937 -
1938); “Chính sách mới của Đảng” (1941); “Kháng chiến nhất định thắng lợi”
(1947); “Bàn về cách mạng Việt Nam” (1965); “Nắm vững ba bài học lớn để thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược” (1986)… Thông qua những tác phẩm đó,
đồng chí Trường Chinh đã làm rõ hai vấn đề lý luận lớn. Một là, lý luận về phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam để
góp phần định ra đường lối chiến lược và sách lược của Đảng. Hai là, lý luận về
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là những
đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam. Thấm nhuần quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hoá, nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em
là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, ở mỗi chặng đường lịch sử, trước mỗi thử thách
của cách mạng, đồng chí Trường Chinh đều đánh giá đúng tình hình, nêu lên trách
nhiệm cụ thể của văn hoá. Hàng loạt tác phẩm cùng các bài viết của đồng chí tạo
thành một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm đúng đắn, sắc bén và sáng tạo của
Đảng ta trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào văn hoá và nghệ thuật
Việt Nam. Nổi bật nhất là những đóng góp của đồng chí trong quá trình soạn thảo
Đề cương văn hoá Việt Nam; Báo cáo về Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam; Báo
cáo đọc tại các Đại hội văn nghệ toàn quốc. Đó là cơ sở lý luận cho việc xây
dựng một nền văn hoá mới Việt Nam theo phương châm dân tộc, khoa học, đại
chúng. Đến hôm nay, những tác phẩm đó vẫn còn nguyên giá trị, chứng tỏ vốn tri
thức uyên thâm, sức sáng tạo kỳ diệu, tầm nhìn chiến lược của đồng chí Trường Chinh.
Không chỉ là một
nhà lý luận văn hoá, nhà lãnh đạo văn hoá, bản thân đồng chí đã thể hiện những
phẩm chất toàn diện của một cách văn hoá lớn. Đồng chí còn là nhà báo cách mạng
nổi tiếng, là cây bút xuất sắc của báo chí cách mạng ngay từ thời kỳ Mặt trận
Dân chủ. Đồng chí đã kế tục xuất sắc sự nghiệp báo chí Nguyễn Ái Quốc, tạo nên
một văn phong chính luận cách mạng cho nền báo chí nước nhà. Những bài báo của
đồng chí có tính chiến đấu cao, có sức thuyết phục lớn, ảnh hưởng sâu rộng
trong các tầng lớp nhân dân. Ngay từ những ngày còn trẻ, đồng chí đã làm chủ
bút nhiều tờ báo quan trọng của Đảng và tiếp đó là người chịu trách nhiệm trực
tiếp những cơ quan ngôn luận của Đảng như các báo “Cờ Giải phóng”, “Sự thật”,
“Nhân dân”, “Tạp chí Cộng sản”. Ở đồng chí, nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà lý
luận, nhà hoạt động văn hóa, nhà báo, nhà thơ đã quyện với nhau làm một. Đó là
sự thể hiện một cách sinh động lương tâm, trí tuệ và tình cảm cách mạng cao đẹp
của người chiến sĩ cộng sản, của nhà lãnh đạo cách mạng của Đảng theo chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đồng chí Trường Chinh, tấm gương người chiến sĩ cộng sản kiên
cường, suốt đời phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân và thời đại.
Trải qua 81 tuổi đời, hơn 60 năm hoạt động cách mạng kiên
cường và liên tục, đồng chí Trường Chinh đã nêu một tấm gương sáng chói và để
lại cho chúng ta những bài học quý, đó là:
- Suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội,
vì hạnh phúc của nhân dân; không ngừng học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
- Ý chí kiên cường cách mạng, tính nguyên tắc và tổ chức kỷ luật, tình cảm chân
thành với đồng bào, đồng chí, tính khiêm tốn, giản dị trong cuộc sống hàng
ngày, phong cách làm việc khoa học, cẩn thận, cụ thể nhằm đặt hiệu quả thiết
thực.
- Tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân.
- Trước những bước ngoặt lịch sử, phải đổi mới tư duy, trên cơ sở nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, đã kịp thời đề ra chủ trương phù hợp, dựa
vào sức mạnh của nhân dân để làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của Đảng, của dân tộc.
Kỷ niệm 116 năm ngày sinh đồng chí Trường
Chinh là dịp để chúng ta ôn lại và tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí
đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Noi gương đồng chí, một nhà
lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, chúng ta nguyện đi theo con đường mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn. Mỗi cán bộ đảng viên
không ngừng rèn luyện, phấn đấu, trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn kết, nhất trí
và phải làm tốt công tác dân vận, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc;
quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội III của Đảng, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam hùng
cường, thịnh vượng, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét