Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2024

NHẬN DIỆN LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH PHỦ NHẬN CHỦ NGHĨA QUỐC TẾ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN

         Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân còn được gọi là chủ nghĩa quốc tế vô sản hay chủ nghĩa quốc tế XHCN được hiểu ở nhiều góc độ tiếp cận: Đó là hệ thống quan điểm, lý luận của CNXH khoa học về sự đoàn kết, thống nhất của giai cấp công nhân (thông qua đội tiền phong) nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của mình. Đồng thời, nó còn được hiểu là thực tiễn phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, lực lượng xã hội tiến bộ đoàn kết, giúp đỡ nhằm chống lại sự áp bức, bóc lột, bất công và xây dựng thành công CNXH trên phạm vi toàn thế giới cũng như mục tiêu thời đại là hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội và phát triển bền vững.

Trong lý luận mác xít, đây là nội dung mang tính nguyên tắc, quy luật trong thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Lý luận này cũng đã được hiện thực hóa một cách sinh động thông qua các phong trào thực tiễn của giai cấp công nhân, đảng cộng sản, đảng cánh tả, lực lượng tiến bộ xã hội trong thực hiện mục tiêu của CNXH và mục tiêu thời đại.

Chính vì vậy, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng như chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân hòng phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác, phủ nhận sự thống nhất, đoàn kết trong lực lượng cách mạng, nhất là từ khi CNXH ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Nguy hiểm hơn, nó còn xuất hiện trong chính phong trào cộng sản và công nhân, với sự hoài nghi, xét lại về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong điều kiện mới. Có thể chỉ ra một số quan điểm như: Hiện nay, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã “lỗi thời” khi ý thức hệ không còn là yếu tố chi phối quan hệ quốc tế, mà là lợi ích quốc gia - dân tộc thì thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân sẽ bất lợi cho Việt Nam, và Việt Nam cần phải thực hiện chủ nghĩa quốc tế, chứ không phải chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; rằng quan hệ giữa các nước đang kiên trì con đường XHCN hiện nay chỉ là quan hệ lệ thuộc...

Đây là những quan điểm sai trái, là nhận định mang tính chủ quan, phiến diện, hoặc là thuộc về chủ nghĩa xét lại khi đánh giá về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân hiện nay.

Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2024

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”

 

Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nói riêng, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây:

Một là, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo giá trị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực nghiên cứu, nắm vững giá trị tư tưởng trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nói riêng và hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, làm cơ sở lý luận để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.

Hai là, chủ động nắm chắc tình hình, ý đồ của các phần tử cơ hội, phản động chống phá, vạch trần sự mâu thuẫn, phi logic, vi phạm phương pháp luận khoa học và biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, trình bày bản chất cách mạng, khoa học, giá trị lý luận và thực tiễn của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung; đặc biệt lấy thành quả của cách mạng Việt Nam làm dẫn chứng sinh động để đấu tranh, phản bác làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng.

Ba là, vận dụng sáng tạo những giá trị lý luận và thực tiễn sinh động để xây dựng hệ thống các bài viết chuyên sâu chuyên luận, sử dụng những luận cứ, luận chứng chặt chẽ, khoa học, logic, đủ sức thuyết phục để định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân, từ đó có nhận thức đúng đắn, niềm tin khoa học vững chắc để “tiến công trên mặt trận không tiếng súng” bẻ gãy từ gốc những luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Bốn là, phát huy vai trò nòng cốt của hệ thống các cơ quan chuyên trách, đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm, sai trái, thù địch trên không gian mạng. Đồng thời, thường xuyên đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh phong phú, phương thức đấu tranh đa dạng, phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.

Dưới ánh sáng soi đường “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” - Cương lĩnh chính trị của giai cấp vô sản, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm, tư tưởng của “Tuyên ngôn” nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, giữ vững bản lĩnh chính trị, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng thường xuyên coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng “như giữ gìn con ngươi của mình”; chú trọng chăm lo, xây dựng đội ngũ đảng viên - đội tiên phong của giai cấp,… Đồng thời, kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội xét lại. Đó là minh chứng rõ nét nhất khẳng định “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” vẫn còn nguyên giá trị, là biểu hiện của sự kiên định, vận dụng sáng tạo những nội dung cơ bản trong “Tuyên ngôn” vào sự nghiệp đổi mới đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay./.

SỰ VẬN DỤNG “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” TRONG XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI MỚI Ở CÁC NƯỚC XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

 

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” một trong những tác phẩm lý luận bất hủ của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự ra đời của tác phẩm này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác gồm ba bộ phận (Triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học); “Tuyên ngôn” đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác đó là: Sự hợp thành của nền tảng xã hội do phương thức sản xuất - trao đổi - cơ cấu xã hội quyết định và đấu tranh giai cấp là quá trình lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là cương lĩnh chính trị, kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xét về mặt lý luận, “Tuyên ngôn” đã đưa ra những cơ sở khoa học khẳng định tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời chỉ ra những cơ sở khách quan, khoa học và cách mạng về chủ nghĩa cộng sản, cũng như sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản hiện đại. Xét về mặt thực tiễn, “Tuyên ngôn” đã công khai trình bày mục đích, nhiệm vụ, biện pháp tiến hành cách mạng của giai cấp vô sản để đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản tiến tới giành chính quyền, thiết lập sự thống trị của giai cấp vô sản hiện đại, xây dựng xã hội mới văn minh, hiện đại - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

          Sự ra đời của hệ thống thống các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Cu Ba, Lào, Trung Quốc và sự lớn mạnh của phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế, nhất là từ sau khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917 đã minh chứng cho những luận cứ khoa học, hoàn toàn đúng đắn mà C.Mác - Ph.Ăngghen nêu trong Tuyên ngôn; đồng thời, đó là cơ sở để bác bỏ mọi quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc giá trị, ý nghĩa của Tuyên ngôn.

            Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Đặc biệt, những tư tưởng cơ bản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào việc đề ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; trong đó, tiêu biểu như trên lĩnh vực kinh tế, chính trị và xây dựng Đảng. Cụ thể:

Trong lĩnh vực kinh tế: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt, vận dụng sáng tạo những giá trị cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt là những nội dung, tư tưởng cốt lõi trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đó là: “Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy”. Vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào điều kiện thực tiễn của đất nước, Đảng ta xác định, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước hết và trung tâm là xây dựng, phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục, vì mục tiêu phát triển con người, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam.

Trong lĩnh vực chính trị: Từ những giá trị lý luận mang tính cách mạng, khoa học về nhà nước và pháp luật trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và các giá trị phổ quát của nhân loại đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền. Đặc biệt từ năm 1986 đến nay, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền ngày càng được hoàn chỉnh, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “…xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,…”. Như vậy, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những tư tưởng, giá trị cốt lõi của Tuyên ngôn vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, quá trình vận dụng của Đảng ta là quá trình đổi mới tư duy, bổ sung cả về lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng: Đảng ta luôn nhất quán quan điểm sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp - tư tưởng này là cơ sở để xây dựng đường lối chủ trương, chính sách nhằm xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong Đảng. Trong đường lối cách mạng, Đảng ta luôn quán triệt và vận dụng tư tưởng cốt lõi của Tuyên ngôn, coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là minh chứng rõ nhất về sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Đánh giá về tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, V.I.Lênin khẳng định: “Tác phẩm này trình bày một cách hết sức sáng sủa và rõ ràng thế giới mới của chủ nghĩa duy vật triệt để - chủ nghĩa duy vật này bao quát cả lĩnh vực sinh hoạt xã hội - phép biện chứng với tư cách là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc nhất về sự phát triển, lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng trong lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản, tức giai cấp sáng tạo ra một xã hội mới, xã hội cộng sản”. Từ những vấn đề lý luận, thực tiễn nêu trên, khẳng định “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là cương lĩnh chính trị của giai cấp vô sản vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

 

NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”

 

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” một trong những tác phẩm lý luận bất hủ của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự ra đời của tác phẩm này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác gồm ba bộ phận (Triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học); “Tuyên ngôn” đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác đó là: Sự hợp thành của nền tảng xã hội do phương thức sản xuất - trao đổi - cơ cấu xã hội quyết định và đấu tranh giai cấp là quá trình lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là cương lĩnh chính trị, kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xét về mặt lý luận, “Tuyên ngôn” đã đưa ra những cơ sở khoa học khẳng định tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời chỉ ra những cơ sở khách quan, khoa học và cách mạng về chủ nghĩa cộng sản, cũng như sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản hiện đại. Xét về mặt thực tiễn, “Tuyên ngôn” đã công khai trình bày mục đích, nhiệm vụ, biện pháp tiến hành cách mạng của giai cấp vô sản để đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản tiến tới giành chính quyền, thiết lập sự thống trị của giai cấp vô sản hiện đại, xây dựng xã hội mới văn minh, hiện đại - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Trải qua hơn 175 năm, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản phải chịu sự chống phá dữ dội từ nhiều phía của “các loại kẻ thù lớn, nhỏ đối đầu với chủ nghĩa Mác”, đặc biệt là sự chống phá, xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các thế lực thù địch, phản động bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn cả gián tiếp và trực diện. Sự chống đối, bài xích, xuyên tạc của các phần tử cơ hội, xét lại, các thế lực thù địch, phản động đối với chủ nghĩa Mác nói chung và đối với tác phẩm “Tuyên ngôn” nói riêng bởi lẽ:

Thứ nhất, “Tuyên ngôn” đã phát hiện ra quy luật tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người, chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản.

 Thứ hai, tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa C.Mác - Ph.Ăngghen; là văn kiện có tính chất Cương lĩnh chính trị đầu tiên của giai cấp công nhân trên toàn thế giới; có tác dụng giáo dục, tập hợp, hiệu triệu giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại để xóa bỏ áp bức, bất công, tiến tới xây dựng chế độ xã hội mới - Xã hội cộng sản chủ nghĩa.

          Thứ ba, Tuyên ngôn là tác phẩm chứa đựng lý luận nền tảng của chủ nghĩa C.Mác - Ăngghen, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày khoa học, thống nhất hữu cơ giữa các nội dung triết học, đó là chủ nghĩa duy vật triệt để và lịch sử, phép biện chứng duy vật khoa học, cách mạng trong xem xét, đánh giá những vấn đề chính trị xã hội. Kinh tế chính trị cung cấp cơ sở để luận giải làm rõ nguồn gốc của “quan hệ hàng hóa, giá trị thặng dư” và nguồn gốc của bóc lột sức lao động, từ đó chỉ ra phương thức xóa bỏ sự áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội do giai cấp tư sản gây ra. Chủ nghĩa xã hội trình bày những nguyên lý cơ bản về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân...

          C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định: “Những quan điểm lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát của những quan hệ thực tại của một cuộc đấu tranh giai cấp hiện có, của một cuộc vận động lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta”[2]. Tất cả điều đó đã và đang làm cho giai cấp tư sản và các lý luận gia của nó “sôi lên như đỉa phải vôi”, không thể chịu đựng nổi lời tuyên bố giá trị và ý nghĩa khoa học, cách mạng của Tuyên ngôn nên chúng cố tình tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận tính đúng đắn của Tuyên ngôn nhằm ngăn cản, chặn lại sự ảnh hưởng và sức mạnh vô địch của Tuyên ngôn bằng bất cứ giá nào.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC SỰ PHỦ NHẬN TƯ TƯỞNG GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”

 

Trải qua hơn 175 năm, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản phải chịu sự chống phá, xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các thế lực thù địch, phản động bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn cả gián tiếp và trực diện. Tuy nhiên, các thế lực thù địch càng ra sức chống phá thì giá trị, ý nghĩa của Tuyên ngôn càng tỏa sáng, càng tỏ rõ sức sống mãnh liệt của một công trình khoa học, cách mạng. Mặt khác, sự ra sức chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với Tuyên ngôn lại càng cho chúng ta thấy rõ hơn về sự bất lực ngày càng thảm hại của chúng.

Từ khi “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đến nay, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản, bọn cơ hội xét lại và các thế lực thù địch, phản động đã không ngừng tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá “Tuyên ngôn” nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung.

Chúng cho rằng: Thời đại ngày nay không còn đối kháng giai cấp vì giai cấp tư sản đã biến tầng lớp công nhân lao động trở thành những người lao động có trí thức, được trả lương hậu hĩnh, thậm chí nhiều người lao động trước đây từ thân phận làm thuê, nay đã có cổ phần ở công ty và đã chính thức được làm chủ của sản xuất, trực tiếp tham gia vào quản trị, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh; cuộc sống của người lao động đã sung túc, giàu sang,…Từ những luận điệu xảo trá trên, chúng cho rằng ngày nay không cần phải đấu tranh giai cấp vì những mâu thuẫn giai cấp trước kia không còn tồn tại nữa. Điều đó đồng nghĩa với việc “thời đại ngày nay không cần đến Tuyên ngôn và chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp”.

Các phần tử cơ hội, xét lại, thù địch, phản động luôn tìm mọi cách để phủ nhận tư tưởng giai cấp và đấu tranh giai cấp, kích động tư tưởng “hiếu chiến”, cổ xúy các hành vi bạo lực trong quần chúng. Đặc biệt, chúng cho rằng: C.Mác- Ph.Ăngghen “đã tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp” vì muốn mau chóng giành thắng lợi trước giai cấp tư sản. Đồng thời, coi nó là tư tưởng chủ đạo của Tuyên ngôn nên coi thường vấn đề dân tộc và đấu tranh dân tộc. Từ đó, chúng vin cớ vô căn cứ cho rằng, hầu hết các Đảng Cộng sản không quan tâm đến vấn đề dân tộc, phát triển sản xuất, văn hóa, xã hội.

Với những luận điệu xảo trá, vô căn cứ, phiến diện, một chiều, cảm tính, các phần tử cơ hội, xét lại, thù địch, phản động đã xem nhẹ và tầm thường hóa vai trò, ý nghĩa của Tuyên ngôn, chúng cố tình tìm mọi cách để che giấu và lâu dần là phủ nhận giá trị cách mạng khoa học của Tuyên ngôn.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc…”, quan điểm này đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của phong trào cộng sản, đồng thời cũng là tiền đề quan trọng cho việc thành lập hàng loạt đảng chân chính của giai cấp vô sản các nước. Chính vì vậy, giai cấp vô sản cần nhận thức đúng mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa trách nhiệm dân tộc và nghĩa vụ quốc tế của giai cấp công nhân.

C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định: “cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản không phải là cuộc đấu tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc…”. Như vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thấy được và chỉ ra mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, C.Mác - Ph.Ăngghen viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ”, điều đó cho thấy hai ông không hề xem nhẹ vấn đề dân tộc. Như vậy theo C.Mác - Ph.Ăngghen, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. C.Mác và Ph.Ăngghen kết luận rằng: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”

 

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC SỰ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN”

 

Trải qua hơn 175 năm, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản phải chịu sự chống phá dữ dội từ nhiều phía của “các loại kẻ thù lớn, nhỏ đối đầu với chủ nghĩa Mác”, đặc biệt là sự chống phá, xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các thế lực thù địch, phản động bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn cả gián tiếp và trực diện. Tuy nhiên, các thế lực thù địch càng ra sức chống phá thì giá trị, ý nghĩa của Tuyên ngôn càng tỏa sáng, càng tỏ rõ sức sống mãnh liệt của một công trình khoa học, cách mạng. Mặt khác, sự ra sức chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với Tuyên ngôn lại càng cho chúng ta thấy rõ hơn về sự bất lực ngày càng thảm hại của chúng.

Thế nhưng, quan điểm sai trái và tác hại từ sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động đối với Tuyên ngôn nói riêng và chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung là không thể xem thường. Bởi lẽ, một khi chúng đã len lỏi vào khắp bộ phận những người cộng sản, thì sẽ làm cho không ít những người cộng sản do thiếu hiểu biết mà mắc vào chủ nghĩa xét lại. Sự chống phá, xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các thế lực thù địch, phản động đối với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung cũng chính là lời nhắc nhở những người cộng sản phải luôn đoàn kết thống nhất chặt chẽ thành một khối vững chắc, tiếp tục cầm súng, cầm bút chiến đấu để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản và những người cộng sản cần phải thấu triệt quan điểm rằng “đừng bao giờ vứt bỏ vũ khí một khi kẻ thù còn âm mưu chống phá”.

Từ khi “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ra đời đến nay, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản, bọn cơ hội xét lại và các thế lực thù địch, phản động đã không ngừng tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá “Tuyên ngôn” nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung:

Bằng những luận điểm không có căn cứ, chúng tìm mọi cách để phủ định sạch trơn giá trị và ý nghĩa khoa học, cách mạng của Tuyên ngôn; chống phá, xuyên tạc những nội dung, tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ có giá trị ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không còn phù hợp đối với thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chúng cho rằng, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và những quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen nói riêng đã trở thành xưa cũ, lỗi thời, lạc hậu; đặc biệt, chúng đã tuyên truyền, xuyên tạc toàn bộ tư tưởng nêu trong “Tuyên ngôn” và cho rằng Tuyên ngôn không còn sức sống nên giai cấp công nhân hiện đại không cần tác phẩm này. Đặc biệt, chúng tập trung đưa ra những luận điệu xuyên tạc đối với một số vấn đề như:

Một là, từ sau khi mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội, xét lại cố tình thổi phồng sự kiện này nhằm loan truyền rằng: tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn “không còn giá trị”, không còn lý do gì để tồn tại và vận dụng trong thời đại ngày nay.

Hai là, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp trung tâm của thời đại và không còn sứ mệnh lịch sử toàn thế giới; bởi chúng cho rằng, thời đại ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ 4.0 và vai trò quan trọng của kinh tế tri thức đã đưa đội ngũ trí thức lên vị trí trung tâm, thay thế giai cấp công nhân, lãnh đạo thế giới.

Ba là, chúng cho rằng giá trị và ưu thế nổi trội trong thời đại ngày nay được thể hiện ở trí thức và lao động bằng chất xám, từ đó chúng cho rằng vị thế của đội ngũ trí thức là một mắt xích không thể thiếu của sợi dây chuyền tư bản gắn chặt với kinh tế số, kinh tế tri thức.

Những luận điệu nêu trên là hoàn toàn sai trái, ngông cuồng, phi lý, không có cơ sở lý luận và thực tiễn để chứng minh, đó cũng là lý do chúng ta phải kiên quyết đấu tranh để vạch trần sự ngụy biện xảo trá, lừa bịp ấy của các thế lực thù địch, phản động; kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ giá trị cách mạng, khoa học của Tuyên ngôn.

 

“TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” - CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ, KIM CHỈ NAM CHO HÀNH ĐỘNG CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ

 

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo, được sự ủy thác của “Liên đoàn những người cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thay mặt giai cấp công nhân, những người cộng sản và cả nhân loại tiến bộ trình bày toàn bộ quy luật phát triển cơ bản và tính tất yếu khách quan về sự thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Tuyên ngôn là tác phẩm đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác, là Cương lĩnh chính trị của giai cấp công nhân toàn thế giới, là ngọn cờ chiến đấu của những người cộng sản.

 “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” một trong những tác phẩm lý luận bất hủ của C.Mác và Ph.Ăngghen, sự ra đời của tác phẩm này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác gồm ba bộ phận (Triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học); “Tuyên ngôn” đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác đó là: Sự hợp thành của nền tảng xã hội do phương thức sản xuất - trao đổi - cơ cấu xã hội quyết định và đấu tranh giai cấp là quá trình lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp. “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” là cương lĩnh chính trị, kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xét về mặt lý luận, “Tuyên ngôn” đã đưa ra những cơ sở khoa học khẳng định tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời chỉ ra những cơ sở khách quan, khoa học và cách mạng về chủ nghĩa cộng sản, cũng như sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản hiện đại. Xét về mặt thực tiễn, “Tuyên ngôn” đã công khai trình bày mục đích, nhiệm vụ, biện pháp tiến hành cách mạng của giai cấp vô sản để đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản tiến tới giành chính quyền, thiết lập sự thống trị của giai cấp vô sản hiện đại, xây dựng xã hội mới văn minh, hiện đại - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Tuyên ngôn đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho phong trào cộng sản và công nhân thế giới đứng lên đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, tiến tới xây dựng một xã hội mới tiến bộ, hiện đại - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, năm 1871 Công xã Pari nổ ra với sự ra đời của kiểu nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới (24 năm sau sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”). Đến năm 1917 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã giành thắng lợi; cũng chính từ sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới cho toàn nhân loại: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới - học thuyết Mác-Lênin đã trở thành hiện thực

Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững và vận dụng sáng tạo “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược và thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đưa đất nước tiếp tục từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bài phát biểu tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

 

HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH

 

Như chúng ta đã biết, cuối thế kỷXIX, đầu thế kỷXX, hệ thống đế quốc chủ nghĩa độc quyền thống trị thế giới. Các nước đế quốc mới phát triển (Đức, Áo) tìm cách mở rộng ảnh hưởng sang châu Phi, châu Đại Dương và kiếm cớ gây chiến tranh, kéo các nước châu Âu, châu Mỹ vào cuộc chiến nhằm chia lại thế giới. Tận dụng mâu thuẫn giữa các nước tư bản trong Chiến tranh thế giới thứ lần thứ Nhất, Đảng Cộng sản Nga do Lênin lãnh đạo đã phát động vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền về tay Xôviết, đánh bại các thế lực phản cách mạng và các đế quốc can thiệp, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Sự ra đời của Liên bang Xô viết và Quốc tế Cộng sản thứ ba đã tạo chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc, làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa.

Ở Việt Nam, cuối thế kỷXIX, mặc dù chiếm được các tỉnh Nam Kỳ nhưng quân Pháp vấp phải sự chống trả quyết liệt của nhân dân ta. Triều đình Huế ngả theo phái chủ hòa, ký hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu đã hạ Chiếu Cần Vương và phò tá vua Hàm Nghi rút lên miền Tây Quảng Trị tổ chức kháng chiến. Phong trào khởi nghĩa hưởng ứng Chiếu Cần Vương nổi lên ở khắp các tỉnh miền Trung và miền Bắc, mặc dù cuối cùng bị thất bại nhưng cũng đã gây cho thực dân Pháp và tay sai những tổn thất nặng nề.

Nguyễn Sinh Cung (Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà nho yêu nước, trên quê hương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng - Làng Hoàng Trù (làng Chùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Cha của Người là cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862 -1929), mẹ là bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901). Bác là con thứ ba trong gia đình, chị là Nguyễn Thị Thanh (1884 - 1954), anh là Nguyễn Sinh Khiêm (1888 - 1950), em là Nguyễn Sinh Xin (1900 - 1901). Các anh chị của Bác đều là những người yêu nước, tham gia phong trào chống Pháp và bị tù đày. Mẹ mất sớm, Người phải theo cha đi đến nhiều nơi, đã học qua các trường: Tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên, Quốc học Huế, Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn và làm giáo viên tại Trường Dục Thanh (Phan Thiết).

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm nô lệ. Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến và tư sản của nhân dân Việt Nam diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại.Mặc dù khâm phục tinh thần quả cảm của các sĩ phu yêu nước, nhưng Nguyễn Tất Thành không tán thành đường lối giải phóng dân tộc của những người lãnh đạo các phong trào yêu nước đương thời. Người nhận thấy cần phải tìm ra một con đường đúng đắn để cứu nước, cứu dân.

Sau này, khi trả lờimột nhà báo Liên Xô, Người nói:  Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đảng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của những nhà văn mới, mà cả Rútxô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”; “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[1]. Như vậy, bằng nhãn quan chính trị sâu sắc và toàn diện, Người đã sớm nhận thức việc tìm racon đường cứu nước, giải phóng của dân tộcđang bị khủng hoảng, từ đó quyết chí ra đi tìm đường cứu nước của riêng mình.

Ngày 5-6-1911, từ bến cảng Nhà Rồng, trên chiếc tàu Amiran Latúsơ Tơrêvin đi Mác xây (Maseille), với một hoài bão lớn lao, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Từ đây, một giai đoạn, một bước ngoặt mới mở ra trong cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.Người muốnsang phương Tây, nơi trung tâm phát triển kinh tế, chính trị lúc bấy giờ, ở đó còn có kẻ thù trực tiếp là thực dân Phápđang áp bức nhân dânđể tìm hiểu tình hình. Với công việc làm phụ bếp trên tàu bắt đầu từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối mỗi ngày, với thái độ thân mật, lễ độ,chịu khó, Người được các bạn cùng làm yêu mến, sẵn sàng giúp đỡ. Sau khi làm xong những công việc trong ngày, Người tranh thủ học tập, đọc hoặc viết, để sáng hôm sau lại bắt tay vào những công việc của một ngày mới.

Ngày 6-7-1911, tàu cập bến cảng Mácxây, một thành phố cảng lớn nhất của nước Pháp trên bờ Địa Trung Hải, đầu mối giao thông quan trọng của Pháp với các nước châu Á, châu Phi và nhiều nước châu Âu. Đặt chân lên đất Pháp, Người thấy ở Pháp cũng có người nghèo khổ như bên mình…bao thắc mắc tự hỏi đặt ra: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?[2]. Qua nhiều lần tiếp xúc, người cảm nhận rằng “người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương”[3].

Tại Mácxây, ngày 15-9-1911, Người viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp, ký tên Nguyễn Tất Thành, xin học Trường thuộc địa[4] với “ý muốn trở thành người có ích cho đồng bào tôi, muốn cho họ được hưởng những lợi ích của học thức”. Tháng 10-1911,đơn xin học của Người bị từ chối.

Năm 1912, Nguyễn Ái Quốc đến châu Phi. Mỗi lần tàu dừng lại bến cảng các nước, Người tranh thủ xem xét cuộc sống của người dân ở đó. Tàu ghé Daca, thủ đô Xênêgan, người xúc động chứng kiến cách đối xử dã man của thực dân da trắng đối với người dân thuộc địa. Người liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của nhân dân Việt Nam: Họ cũng là nạn nhân của sự hung ác, vô nhân đạo do bọn thực dân da trắng gây nên. Tính mạng của người bản xứ, không kể là da đen hay da vàng, đều không đáng giá một xu. Những suy nghĩ đó tạo nên ở Ngườisự đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân dân các nước thuộc địa.Bước đầu, Người đã rút ra kết luận: “Dù là màu da khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[5].

Cuối năm 1912, tàu tiếp tục qua Máctiních (Trung Mỹ), Ururoay, Áchentina (Nam Mỹ) và dừng lại ở nước Mỹ. Tại đây, Người đã có dịp tìm hiểu bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng của nước Mỹ. Ngườihòa mình vào cuộc sống lao động và tình cảm chan hòa, gần gũi với người lao động, cả da trắng và da đen, để tìm hiểu nguồn gốc lịch sử, cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và kỳ thị chủng tộc. Nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu được nhiều điều, nhưng người phê phán bản chất không triệt để của cuộc cách mạng tư sản này. Người cho rằng các nước này làm cách mạng cả 150 năm rồi mà công nông vẫn cứ cực khổ. Đây là sự nhận thức mới để Nguyễn Ái Quốc không lựa chọn con đường tư sản, bởi sự “không đến nơi” của nó sẽ không thể đem lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân lao động.

Từ năm 1913đến năm 1917, Nguyễn Ái Quốc sống ở nước Anh. Người làm việc tại khách sạn Cáclơtơn (London) với nhiều công việc khác nhau từ quét tuyết, đốt lò, rửa bát. Người tham gia Hội những người lao động hải ngoại[6]…Những năm tháng ở nước Anh giúpNguyễn Ái Quốc tích lũy nhiều hiểu biết về chế độ chính trị của xã hội tư sản, về đấu tranh giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa chính quốc và thuộc địa của một nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển, nhất là trang bị cho mình một trình độ chính trịvà kiến thức khá vững vàng về tiếng Anh -Ngôn ngữ giao tiếp quan trọng trong sinh hoạt và đấu tranh chính trị sau này.

Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp và cư trú tại Thủ đô Paris, nơi hội tụ các yếu tố về chính trị, tinh thần, văn hóa, xã hội. Nước Pháp lúc này đang phục vụ đắc lực cho Chiến tranhThế giới lần thứ Nhất. Không khí phản đối chiến tranh diễn ra khắp nơi trong cả nước, phong trào đòi hòa bình ngày càng phát triển. Chiến tranh lên đến đỉnh cao vào cuối năm 1917 cũng là lúc cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi, thúc đẩy cuộc khủng hoảng hệ thống tư bản chủ nghĩa thêm gay gắt, đi tới kết thúc chiến tranh vào tháng 11-1918. Trong bối cảnh chính trị đó,Nguyễn Ái Quốc (đang ở Pháp) chưa thể nhận thức đầy đủ về tính chất và ý nghĩa vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Mười.Tại Thủ đô Paris hoa lệ, nhờ lăn lộn trong quần chúng lao động, Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng đến được với Phái tả của cách mạng Pháp.

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp - Chính đảng duy nhất của nước Pháp bênh vực các dân tộc thuộc địa. Người tìm hiểu tình hình chính trị - xã hội nước Pháp, liên hệ với những người Việt Nam có tinh thần yêu nước, từng bước tham gia vào phong trào đấu tranh của công nhân Pháp.Điểm nổi bật trong hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc là tháng 6-1919, các nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới thứ Nhất họp ở Vecxay (Pháp), để phân chia lại thế giới. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội nghị bảnYêu sách của nhân dân An Nam tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi chính Phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn, được ví như “Tiếng bom trên bàn hội nghị Vecxay”. Bản yêu sách phản ánh nguyện vọng của nhân dân Việt Nam nhưng không được hội nghị xem xét. Sự việc đó đã làm cho Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng, những lời tuyên bố của các nước đế quốc về quyền tự do của các dân tộc chỉ là sự lừa bịp. Đồng thời, Người rút ra bài học vô giá: Sự nghiệp giải phóng dân tộc mình chủ yếu phải do dân tộc mình quyết định, phải trông cậy vào lực lượng của chính mình.

Trong hành trình hoạt động tìm đường cứu nước, bước chuyển biến quan trọng tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc là khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp tháng 7-1920. Luận cương đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc ánh sáng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa. Sau này Người viết: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”[7]. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến trong nhận thức của Nguyễn Ái Quốc. Người đã tìm thấy phương hướng, đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân, phong kiến. Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản(Quốc tế 3) do Lênin thành lập. Tiếp đó, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp và tham dự Đại hội Tua tháng 12-1920. Như vậy, Bác là người Việt Nam yêu nước đầu tiên trở thành người cộng sản.Đây là một mốc lịch sử quan trọng trong hành trình tìm đường cứu nước của Người, đánh dấu bước chuyển biến quyết định, nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người - Từ một nhà yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản.

Một thời kỳ hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc trên các lĩnh vực bắt đầu, đặc biệt là các diễn đàn, các Đại hội quốc tế và trên báo chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Sáclơ Phuốcniô, báo LHumanité (Pháp), Người nói: “Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi tin theo Lênin. Rồi, từng bước một, tôi đi đến kết luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”[8]. Sự kiện này đánh dấu sự phát triển tư duy khác biệt về con đường cứu nước giữa Nguyễn Ái Quốc với các bậc cách mạng tiền bối, như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước khác đang hoạt động ở trong và ngoài nước khi đó.

Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng cho đất nước, cho dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng xúc tiến các hoạt động lý luận và thực tiễn để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam. Việc truyền bá tư tưởng cứu nước của người là một quá trình khó khăn, gian khổ nhưng liên tục, không hề đứt đoạn và được tiến hành từ thấp đến cao. Việc truyền bá tư tưởng và lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin của Người luôn có đối tượng, có mục đích trải qua các giai đoạn khác nhau, như:  Ở Pari (1921-1923), Mácxcơva (1923-1924), Quảng Châu (1924-1927), Đông Bắc Thái Lan (1928-1929). Trên mỗi địa bàn, tùy điều kiện cụ thể, Người đã sử dụng những phương pháp truyền bá khác nhau nhằm đạt mục đích là cổ vũ chính trị, tư tưởng cho quần chúng công - nông, gây dựng lực lượng cách mạng. Đtrực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, Người lựa chọn là Quảng Châu (Trung Quốc), nơi có điều kiện thuận lợi cho hoạt động cách mạng để thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên -Tổ chức chính trị theo khuynh hướng mácxít đầu tiên của Việt Nam cho ra đời các phương tiện tuyên truyền, như: Báo Thanh niên, Lính cách mệnh, báo Công nông. Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc đã viết cuốn sách Đường kách mệnh. Người đã trực tiếp tổ chức các lớp huấn luyện chính trị để đào tạo cán bộ tổ chức, cán bộ tuyên truyền để xây dựng lực lượng cách mạng. Bằng những hoạt động tích cực đó, tổ chức cách mạng do Người sáng lập đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nơi, cả trong và ngoài nước để thực hiện nhiệm vụ truyền bá, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin sâu rộng trong quần chúng công - nông.

Sự lựa chọn của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn phù hợp với xu thế lịch sử. Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa Nguyễn Ái Quốc và những người Việt Nam yêu nước cùng thời. Người đã có sự nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc. Trở thành người cộng sản, Người từng bước vạch đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam. Do nắm vững tính khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ đầu Nguyễn Ái Quốc đã biết vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng nước nhà. Tính khoa học và cách mạng triệt để của đường lối cứu nước do Nguyễn Ái Quốc đề xướng có sức hút và tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử chứng minh, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc khai mở đã giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Sau những năm bôn ba, người quyết định về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Nói về lý do trở về nước, người khẳng định: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”[9].

Như vậy, việc ra đi tìm đường cứu nước là hành động có chủ đích, có động cơ, có sự chuẩn bị từ trước của Người. Hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là sự lựa chọn giá trị và con đường giải phóng đất nước.Vượt qua bao khó khăn gian khổ trong những năm bôn ba khắp thế giới đã đưa Người đến với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh hoàn toàn trên tinh thần độc lập, tự chủ. Nguyễn Ái Quốc đã nắm bắt sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta, tạo nên bước ngoặt quyết định của lịch sử cách mạng Việt Nam. Người đã tiếp thu và truyền bá về Việt Nam một hệ thống lý luận chính trị tiên phong của chủ nghĩa Mác - Lênin.Nguyễn Ái Quốc - Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Tiếp đó làNgười sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo nhân dân,đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ngày nay./.

 

 



[1]Youtube.com/watch/v=3j0ọDypU1s

[2]Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Sđd, tr.19.

[3]Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Sđd, tr.20.

[4]Trường Thuộc địa nguyên là Trường Campuchia tách ra năm 1887, Trường chỉ dạy ngôn ngữ và văn minh Pháp cho thanh niên Việt Nam do Toàn quyền Đông Dương gửi sang.

[5]Hồ Chí Minh toàn tập,tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.287.

[6]Một tổ chức bí mật của những người lao động châu Á trên đất Anh, có xu hướng tiến bộ, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của các nước thuộc địa.

[7]Hồ Chí Minh toàn tập,tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.588.

[8]Hồ Chí Minh toàn tập,tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.588.

[9]Youtube.com/watch/v=3j0ọDypU1s

PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC HÀNH TRÌNH TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH

 

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do sớm nhận thấy những con đường cứu nước của các bậc tiền bối không còn phù hợp với điều kiện lịch sử, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Chặng đường 30 năm bôn ba qua khoảng 30 quốc gia, 4 châu lục (chỉ chưa đến châu Úc), qua 3 đại dương, với cuộc sống đầy gian lao, vất vả đã đưa Người đếnlý luận Mác-Lênin với nhận thức: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chỉ có cách mạng vô sản mới là con đường giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, với nhận thức chưa đúng hoặc đứng trên quan điểm thù địch, vẫn còn một sốý kiến sai trái, thậm chí cố tình xuyên tạc hành trình đi tìm con đường cứu nước của Bác. Với những luận cứ khoa học, làm rõ hành trình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Hồ Chí Minh,qua đó góp phần phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc thực tiễn lịch sử.

Để chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, trong đó, chúng đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tiểu sử, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, di sản Hồ Chí Minh. Trong đó, chúng tập trungxuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa hoạt động, hành trình tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Những luận điệu chống phá Hồ Chí Minh xuất hiện khá sớm, với sự tham gia của nhiều lực lượng, như:Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế; các tổ chức, cá nhân phản động người Việt Nam ở nước ngoài; các đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị ở trong nước; các đối tượng có nhận thức chính trị thấp kém, lệch lạc hoặc vì tham danh, hám lợi… Thủ đoạn chúng thường tiến hành là lợi dụng chiêu bài dân chủ và tính tiện dụng của mạng xã hội để tuyên truyền những thông tin bịa đặt, xuyên tạcdo chúng nhào nặn, xâu chuỗi, đánh tráo để bôi nhọ uy tín, hạ bệ lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Để xuyên tạc, phủ nhận ý nghĩa hoạt động, hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, chúng tập trung xuyên tạc động cơ Hồ Chí Minh sang phương Tây năm 1911 với cứ liệu là Đơn xin vào Trường thuộc địa mà Người gửi cho Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp ngày 15/9/1911. Chúng vin vào nội dung lá đơn và xuyên tạc với lập luận khiên cưỡng, rằng: Hồ Chí Minh ban đầu theo ý muốn của cha là học tập sau này làm quan triều đình nhà Nguyễn, nhưng sau hy vọng không thành vì ông Nguyễn Sinh Sắc bị mất chức, nên tìm cơ hội sang Pháp với mộng làm quan cho thực dân Pháp. Khi “bị từ chối thì bất đắc phiêu lưu kiếm sống, không có thời giờ suy nghĩ chuyện đất nước”; “đến Liên Xô học tập là hy vọng có việc làm kiếm lương hằng tháng, chứ không phải vì cách mạng Việt Nam”. Chúng trắng trợnxuyên tạc quan hệ giữa Người với các tổ chức, chính giới quốc tế bằng cách đặt điều: “Quốc tế cộng sản và Đảng Cộng sản Liên Xô đánh giá khả năng của Hồ Chí Minh dưới trung bình, làm việc không chuyên nghiệp, không có tinh thần cách mạng, không chú tâm làm việc”. Cùng với đó, chúng còn tập trung xuyên tạc quan hệ của Hồ Chí Minh với các bậc tiền bối cách mạng khi đưa ra luận điệu: “Hồ Chí Minh đã bán Phan Bội Châu cho Pháp năm 1925 để nhận khoản tiền và tạo thuận tiện trong việc gây thanh thế, bành trướng cộng sản ở trong nước của Hồ Chí Minh”. Chúng còn quy chụp: “Trong quá trình tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh lấy bí danh, bút danh là tên người nước ngoài, thể hiện phục vụ cho ngoại quốc, không phải vì cách mạng Việt Nam”… Những luận điệu nêu trên là sự bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn sự thật lịch sử, ý nghĩa, giá trị về hành trình đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

 

 

PHÁT HUY VAI TRÒ, TRÁCH NHIỆM CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ NHÂN DÂN TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG THỜI KỲ MỚI

 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, dưới tác động tiêu cực của tình hình thế giới đến đời sống xã hội đất nước ta như: Xung đột Nga - Ukraine, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, tự do mới, dịch bệnh… và những nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường đặt ra cho Đảng, Nhà nước ta nhiều vấn đề mới, hệ trọng cần phải giải quyết. Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn tăng cường liên kết với những phần tử cơ hội chính trị, không ngừng xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng xuyên tạc giá trị, tính khoa học, cách mạng của học thuyết Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng về chủ nghĩa xã hội. Chúng xuyên tạc mục tiêu, lý tưởng con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị nhiều hình thức vào những dịp Đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp... đòi đổi mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thực chất là đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng còn lợi dụng vào những khó khăn tồn tại, hạn chế, thiếu sót, sơ hở trong đời sống xã hội, nhất là các vấn đề y tế, giáo dục, giao thông vận tải, tài nguyên môi trường…, gây hoang mang, dao động trong quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền địa phương, thậm chí dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị trong chính đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng cảnh báo: “Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc câu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”[1].

Nghị quyết số 35-NQ/TW khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Vì vậy, để đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, ngoài việc xác định đúng nội dung, phương thức đấu tranh, thì cần đặc biệt quan tâm đến đối tượng tham gia vào cuộc đấu tranh này mà chủ thể đầu tiên, trước hết và cốt lõi là Đảng Cộng sản Việt Nam, mà cụ thể là các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên của Đảng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền từ Trung ương đến cơ sở cần phải phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc và đầy đủ, kiên định và tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; gắn với đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, nhất là các nghị quyết về xây dựng Đảng. Cấp ủy các cấp phải nêu cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý tư tưởng; chủ động nhận diện, làm rõ các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Chủ động, kịp thời cung cấp các thông tin chính thống để định hướng dư luận; nâng cao khả năng “tự bảo vệ” của mỗi cán bộ, đảng viên viên và quần chúng trước những tác động và ảnh hưởng xấu từ bên ngoài, nhất là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động.

Tăng cường tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018, của Ban Bí thư (khóa XII) “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Chủ động, sáng tạo thông qua nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, sáng tạo, giúp cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu và nắm vững hơn nữa bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thấy rõ bản chất phản động của các thế lực thù địch, phản cách mạng. Chú trọng việc biểu dương, nêu gương các điển hình tiên tiến, các mô hình, tập thể, cá nhân tiêu biểu, có sức lan tỏa trong xã hội. Bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động, sự đoàn kết trong Đảng.

Chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt hơn nữa các chính sách, pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Điển hỉnh như việc và Nhà nước đã và đang hoàn thiện nền dân chủ XHCN, thực hiện tốt quy chế, pháp lệnh dân chủ ở cơ sở; quan tâm thực hiện đúng quyền con người theo các công ước quốc tế và Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam. Quan tâm chăm lo, thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc nhằm tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng gắn liền với đoàn kết toàn dân tộc.

Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, càng cần phải nhận thức rõ hơn về nền tảng tư tưởng của Đảng, nhận thức công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng là nhiệm vụ thường xuyên, thiết yếu để điều chỉnh thái độ đấu tranh tự giác, kiên quyết, tích cực hơn. Nếu như Đảng coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, lý luận cho đội ngũ thì bản thân mỗi đồng chí cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, học tập lý luận, nâng cao lập trường tư tưởng, nắm vững Cương lĩnh, đường lối, cùng các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước. Thực tế quá trình xây dựng và phát triển của mình, Đảng ta đã vững vàng đi qua bao gian khổ, thử thách bởi Đảng có đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành, tinh nhuệ, được giáo dục, rèn luyện cả trong lý luận và thực tiễn.

Mỗi đồng chí cán bộ, đảng viên cần nhận thức đúng đắn sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân các đồng chí đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng trước những tác động từ bên ngoài. Chỉ khi nhận thức đầy đủ về mục tiêu, lý tưởng của mình, hiểu được chân lý “Còn Đảng là còn mình” để từng bước khắc phục, đấu tranh với những biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng, lười học tập, sợ học lý luận, lười suy nghĩ, để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đối với quần chúng Nhân dân, hơn khi nào hết, chúng ta cần khơi dậy tinh thần yêu nước và tinh thần trách nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ Đất nước của mỗi người dân. Lịch sử dân tộc đã chứng minh, “Lòng dân” chính là “Vận nước”, chỉ khi có được sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân, thì sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc ta mới giành được những chiến công vĩ đại trước những kẻ thù to lớn nhất. Trong cuộc chiến giữa thời bình nhằm chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chúng ta phải làm cho dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm. Mỗi cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến địa phương cần ra sức lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng Nhân dân; tiếp tục tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, đưa đất nước ta phát triển phồn vinh, hạnh phúc


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.23