Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2024

Bộ Công an thông báo về hai tổ chức khủng bố

 


Vừa qua, căn cứ pháp luật Việt Nam và quốc tế, Bộ Công an thông báo 2 tổ chức đã và đang tiến hành hoạt động khủng bố.

Thứ nhất là tổ chức khủng bố “Nhóm Hỗ trợ người Thượng” có tên tiếng Anh là “Montagnard Support Group, Inc.”, viết tắt MSGI; do các đối tượng Y Mut Mlô và Y Duen Bdăp (nguyên là thành viên tổ chức “Quỹ người Thượng - MFI” ở Mỹ) tuyên bố thành lập năm 2011 nhằm móc nối, lôi kéo người dân tộc thiểu số sử dụng bạo lực, tiến hành khủng bố, kích động biểu tình, bạo loạn vũ trang đòi ly khai, tự trị, thành lập nhà nước riêng ở Tây Nguyên. Trụ sở đặt tại: P.O.BOX 668843, Charlotte, NC 28266, USA; các kênh truyền thông gồm: “www.montagnardsupportgroup.blogspot.com”; “Montagnard Support Group”.

Đối tượng cầm đầu, chỉ huy là Y Mut Mlô sinh năm 1960 tại Đắk Lắk (Chủ tịch); Y Duen Bdăp (Phó Chủ tịch); Y Bion Mlô (phụ trách đối ngoại); Y Lhưl Byă (phụ trách truyền thông); các thành viên cốt cán khác gồm: Y Čhik Niê sinh năm 1968 tại Đắk Lắk; Y Chanh Byă sinh năm 1984 tại Đắk Nông; Y Bé Êban sinh năm 1982 tại Đắk Nông; Y Niên Êya sinh năm 1977 tại Đắk Nông, Y Sôl Niê sinh năm 1979 tại Đắk Lắk...

MSGI hoạt động theo phương thức bạo động; chủ trương lôi kéo, tuyển mộ thành viên ở trong nước, huấn luyện phương thức hoạt động, kích động biểu tình, bạo loạn vũ trang; tài trợ tiền, vũ khí, phương tiện, chỉ đạo tiến hành tấn công khủng bố, giết hại cán bộ và người dân, phá hoại tài sản của Nhà nước và nhân dân nhằm đòi li khai, tự trị, thành lập “Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên.

Thứ hai là tổ chức khủng bố “Người Thượng vì công lý” có tên tiếng Anh là “Montagnard Stand for Justice - MSFJ”, do các đối tượng Y Quynh Bdap, Y Phik Hdok, Y Pher Hdrue, Y Aron Êban, H’ Sarina Krong, H’ Tlun Bdap, Y Ruing Knul, H Mla Hdruẽ thành lập tháng 7-2019 tại Thái Lan và hoạt động tại Mỹ từ tháng 4-2023. Trụ sở: Số 49/312 Kraorattana, Soi 6, Bang Rak Phatthana, huyện Bang Bua Thong, tỉnh Nonthaburi, 11110, Thái Lan; trang web và các kênh truyền thông: “msfjustice.org”, “Montagnard Stand for Justice”, “Người Thượng Vì Công Lý”, “Klei Kpă Ênô Kơ Anak Cữ Chiăng”, “BHRM Montagnards”, “MSFJ TV”.

Đối tượng cầm đầu là Y Quynh Bdap sinh năm 1992 tại xã Ea Bhôk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, quốc tịch Việt Nam; Y Phik Hdok sinh năm 1993 tại buôn M’Duk, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; Y Pher Hdrue sinh năm 1979 tại buôn Êa Khít, xã Êa Bhôk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk; H’ Biăp Krông sinh năm 1987 tại buôn Kwăng, xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; Y Aron Êban sinh năm 1985 tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk..

Vai trò của giảng viên các trường chính trị trong công tác đấu tranh với cơ hội chính trị ở Việt Nam hiện nay

 


Cơ hội chính trị (CHCT) là một trong những vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng đến uy tín và sự tồn vong của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình hiện nay. Những phần tử CHCT ẩn nấp trong Đảng, sử dụng hai chữ “đảng viên” để mưu lợi cá nhân, tham ô, hủ hoá, phá hoại Đảng từ bên trong. Một số phần tử vào Đảng, ẩn nấp trong các tổ chức đảng để luồn sâu, leo cao, thậm chí móc nối với các thế lực phản động, thù địch khi có điều kiện để phá vỡ tổ chức đảng. Một số phần tử lợi dụng uy tín của mình núp bóng văn nghệ sĩ, tri thức… để công kích chế độ, lôi kéo, kích động nhân dân chống đối chính quyền, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa. Trước tình hình trên, giảng viên các trường chính trị cần phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong việc tuyên truyền, truyền thụ kiến thức lý luận chính trị và kinh nghiệm cho học viên đấu tranh với những phần tử CHCT trong Đảng nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục… Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa”[1]. Dù ở giai đoạn cách mạng nào, vai trò của người thầy cũng hết sức quan trọng, đặc biệt là vai trò của đội ngũ giảng viên các trường chính trị đối với sự nghiệp xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho hệ thống chính trị. Mặt khác, đội ngũ này càng phải ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực thù địch và CHCT trong Đảng.

Ở Việt Nam hiện nay, CHCT chưa có đủ điều kiện để hình thành một trào lưu như một số quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, những biểu hiện và đặc trưng của nó lại hết sức nguy hiểm, đe doạ đến sự tồn vong của Đảng và chế độ. Khi nói đến CHCT hay phần tử CHCT thường đề cập đến những đối tượng đã có quá trình tham gia hoạt động cách mạng nhưng sau đó vì những điều kiện, hoàn cảnh thay đổi, khi mà những lợi ích cá nhân của họ không được đáp ứng, họ hình thành những tư tưởng bất mãn, chống đối, quay lại nói xấu Đảng, nói xấu chế độ. Bên cạnh đó, còn có những nhóm CHCT khác đang công tác hoặc đã nghỉ hưu; các phần tử chống đối, bất mãn với chế độ hoặc các chức sắc tôn giáo có tư tưởng chính trị cực đoan… Khi yêu cầu cá nhân không được đáp ứng hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo, dụ dỗ, những đối tượng này quay lại chống phá, nói xấu chế độ, có tư tưởng, quan điểm sai trái hoặc thái độ thù địch, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Họ còn lôi kéo một bộ phận người dân thiếu hiểu biết, không có lập trường chính trị để gây ra xung đột, chống đối và bạo động.

Chính vì vậy, việc nhận diện, đấu tranh phòng, chống CHCT hiện nay là vấn đề hết sức cấp bách, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là giảng viên các trường chính trị phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình.

Giảng viên các trường chính trị là những người được đào tạo bài bản, chính thống, chính quy về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là những người nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nên có nền tảng về lý luận hết sức phong phú, nhạy bén với thời cuộc. Họ có đủ năng lực để nhận biết, đánh giá những biểu hiện, đặc trưng của CHCT; sẵn sàng dùng những lý luận sắc bén của mình phản bác, đấu tranh không khoan nhượng với những quan điểm thù địch của các thế lực thù địch, các tổ chức chống Cộng, góp phần quan trọng vào việc đẩy lùi những biểu hiện suy thoái và CHCT.

Giảng viên các trường chính trị là những nhà tuyên truyền, “cánh tay phải” đắc lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Giảng viên là người trang bị cho học viên những vấn đề liên quan đến lý luận chính trị, chỉ ra phương pháp, cách thức để học viên nhận diện, đấu tranh phòng, chống CHCT, giúp học viên có được cái nhìn sâu sắc hơn về trách nhiệm của bản thân trong đấu tranh với những phần tử CHCT.

Giảng viên các trường chính trị là những người kế tục sự nghiệp vinh quang của những nhà mác-xít chân chính trong công cuộc giác ngộ lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa xã hội. Trong đó, thông qua việc truyền thụ kiến thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với học viên góp phần giáo dục lý tưởng cách mạng, đẩy lùi những tư tưởng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần phòng, chống CHCT.

Giảng viên các trường chính trị luôn tích cực, chủ động trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, có bài viết đăng tải trên các báo, tạp chí, hội thảo khoa học trong và ngoài nước. Trong đó có rất nhiều bài viết có nội dung về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhận diện và đấu tranh với các phần tử CHCT. Các bài viết đã lên án những luận điệu xuyên tạc, chống phá, phản động của các thế lực thù địch, những kẻ “xét lại” và những kẻ CHCT. Những năm gần đây, giảng viên các trường chính trị trong cả nước đã tích cực viết bài tham gia Cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; qua đó thể hiện được vai trò trong sự nghiệp xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin, công nghệ số hiện nay, các thế lực thù địch, phần tử CHCT luôn tìm mọi cách sử dụng các công cụ truyền thông, nền tảng mạng xã hội để tuyên truyền, chống phá Đảng và Nhà nước, gây hoang mang, tạo dư luận tiêu cực đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân, âm mưu phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc mà mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và Nhân dân. Trước tình hình đó, đội ngũ giảng viên các trường chính trị bằng những kiến thức, lý luận của mình đã tích cực đăng tải thông tin, bài viết lên các nền tảng mạng xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những luận điệu “xét lại”, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch góp phần đấu tranh với những phần tử CHCT, củng cố lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, tuyên truyền về ý thức đạo đức, lý tưởng cách mạng chân chính cho thế hệ trẻ, củng cố lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.

Thông qua các bài giảng trên lớp, giảng viên các trường chính trị lồng ghép nội dung về vấn đề phòng chống tham nhũng, tiêu cực, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, từ đó học viên thấy được trách nhiệm của mình đối với công tác này. Mặt khác, giảng viên cũng chủ động lồng ghép chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để củng cố về mặt tinh thần cho cán bộ, đảng viên, răn đe với những phần tử suy thoái, CHCT đang “núp bóng” đảng viên, chưa lộ rõ bộ mặt chống phá Đảng và Nhà nước.

Nâng cao hơn nữa vai trò của giảng viên

Để phát huy hơn nữa vai trò của giảng viên các trường chính trị trong công tác đấu tranh với CHCT ở Việt Nam hiện nay, cần thực hiện một số giải pháp:
Một là, giảng viên các trường chính trị phải tự xác định cho mình các tiêu chí trên tất cả các mặt chính trị tư tưởng, tư cách, phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong sinh hoạt, năng lực chuyên môn, kiến thức thực tiễn... để nâng cao năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Phải luôn rèn luyện sự tâm huyết, say mê, tận tụy với công việc, trau dồi, tích lũy kiến thức lý luận, thực tiễn; rèn luyện kỹ năng, phương pháp sư phạm để chuyển tải đến học viên một cách hiệu quả nhất. Có như vậy mới nâng cao được chất lượng bài giảng, đồng thời nhận diện và đấu tranh tốt hơn với các biểu hiện và những phần tử CHCT.

Hai là, song song với việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, năng lực thực tiễn thì việc rèn luyện khả năng nghiên cứu khoa học của giảng viên cũng là nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện. Chỉ khi nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tiễn thì giảng viên mới có thể tiếp cận được với những tài liệu, những vấn đề liên quan đến CHCT và phương pháp đấu tranh chống lại CHCT trong Đảng. Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ hỗ trợ trực tiếp, bổ sung cho nhau. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn của đội ngũ giảng viên, định hướng cho giảng viên lựa chọn chủ đề nghiên cứu phù hợp với hoạt động chuyên môn của nhà trường, có nhiều giá trị thực tiễn, có thể sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo bổ ích trong dạy và học.

Nhà trường cần đẩy mạnh hoạt động cử giảng viên đi nghiên cứu thực tế ở cơ sở, củng cố bổ sung, lý giải những vấn đề đặt ra ở cơ sở. Bên cạnh đó, cần phải cử giảng viên đến những “điểm nóng” về chính trị - xã hội để giảng viên tiếp cận và cọ xát với tình hình thực tế, từ đó có được những kinh nghiệm trong xử lý các tình huống thực tiễn, vận dụng vào hoạt động giảng dạy và tuyên truyền.

Ba là, trong công tác giảng dạy, các giảng viên cần lồng ghép vào bài giảng những phân tích, giảng giải cho người học thấy rõ âm mưu, hình thức, chiêu trò chống phá của thế lực thù địch, các phần tử CHCT. Chúng thường lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, lợi dụng những hiện tượng, việc làm sai trái của một số người để rêu rao, kích động, cho rằng Việt Nam vi phạm về quyền con người, quyền tự do dân chủ, tự do tôn giáo. Thủ đoạn của chúng là chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ; dùng ngoại giao, đầu tư kinh tế hỗ trợ, hậu thuẫn chống phá. Vì vậy, người giảng viên các trường chính trị cần thông qua nội dung bài giảng để định hướng về tất yếu khách quan của lịch sử; tính quy luật trong sự vận động phát triển quá trình sản xuất vật chất, của sự phát triển kinh tế - xã hội cho học viên. Trên từng nội dung bài giảng, mỗi giảng viên cần phân tích luận giải rõ ràng, đánh giá vấn đề bảo đảm tính khách quan, khoa học để học viên có nhận thức đúng, tư tưởng đúng.

Bốn là, Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị cần quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị của các trường chính trị. Mở các lớp bồi dưỡng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, trong đó lồng ghép nội dung nhận diện và đấu tranh phòng, chống CHCT một cách thường xuyên, liên tục. Có những chủ trương, chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ cho giảng viên các trường chính trị trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với CHCT trong Đảng.

Năm là, cần tổ chức các hội thảo khoa học; cử cán bộ, giảng viên các trường chính trị đi tham quan, học tập, nghiên cứu thực tế, học tập kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và những phần tử CHCT. Đây là một trong những biện pháp hết sức cần thiết bởi vì rất nhiều quốc gia trên thế giới có những kinh nghiệm hết sức phong phú trong công tác nhận diện, đấu tranh với CHCT. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà chúng ta có thể học tập, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tình hình thực tiễn của Việt Nam.

Công tác đấu tranh với CHCT ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành và toàn hệ thống chính trị. Muốn vậy thì bên cạnh trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ thì cán bộ, đảng viên phải tích cực học tập lý luận chính trị, phải thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tiếp thu tư tưởng, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước sẽ góp phần đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong mỗi cán bộ, đảng viên, thông qua đó góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh với CHCT trong Đảng. 

Thứ Năm, 14 tháng 3, 2024

Ngăn chặn âm mưu dùng sách, báo xấu độc để chuyển hóa tư tưởng lệch lạc

 Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng, một trong những phương thức mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng là phát hành các sách, báo có nội dung độc hại, xuyên tạc, phản động. Đáng phê phán là một số cá nhân do nhận thức chính trị hạn chế, thiếu hiểu biết và hám lợi đã “nối giáo cho giặc” khi công khai tán phát, mua bán sách, báo xấu độc. Vì thế, việc ngăn chặn sự thẩm lậu, đấu tranh trực diện với sách, báo xấu độc cần nhất là chủ động, thường xuyên, kịp thời, đi vào thực chất.

 Âm mưu đầu độc nhận thức

Đằng sau một cuốn sách, một bài báo chứa đựng tư tưởng, lý lẽ, tâm tư, tình cảm có tác động đến nhận thức, hành vi của độc giả. Bên cạnh những “bảo thư” soi đường, chỉ lối để con người hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ; rèn luyện, phấn đấu tu thân, tích đức để khẳng định bản thân, cống hiến cho xã hội; cũng không hiếm những “tà thư” đầu độc độc giả đưa đường đến với sự tối tăm, hận thù, bi quan, những hành vi lệch chuẩn, thiếu văn hóa và đạo đức, vi phạm pháp luật...

Khác với loại hình tuyên truyền trực quan như tranh, ảnh, phim; sách, báo xấu độc xâm nhập âm thầm, dùng lý lẽ bề ngoài tưởng chừng rất khách quan, khoa học nhưng ngầm ẩn những dụng ý vô cùng thâm hiểm. Chỉ cần độc giả là người thiếu hiểu biết về chính trị, không kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng, có ẩn ức, bất mãn trong đời sống rất dễ bị tiêm nhiễm, dần dần “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lúc nào không hay. Chẳng hạn, khá nhiều sách, báo dưới cái mác nghiên cứu khoa học lịch sử đã “bắn vào quá khứ” khi lập luận rằng: Không cần tiếp thu chủ nghĩa cộng sản, không cần sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bác Hồ, không cần có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam cứ “ngoan ngoãn” ở trong “vòng tay bảo hộ” của mẫu quốc Pháp sau Chiến tranh Thế giới thứ hai thì đất nước sẽ phát triển, dân trí nâng cao; rồi sau đó thông qua phương cách hòa bình để có được nền độc lập thì sẽ tốt hơn là phải cầm súng suốt mấy chục năm, làm “kéo lùi lịch sử”. Luận điệu này với những người trưởng thành có hiểu biết lịch sử, có tư duy biện chứng khoa học thì đích thực là phản động, phi thực tế và phản khoa học. Tuy nhiên, nếu là một người trẻ mới mười tám, đôi mươi, sinh ra trong hòa bình thì chưa chắc đã đủ bản lĩnh, trình độ để nhận diện đây là “tà thuyết”.

Theo số liệu của Bộ Công an, tính từ năm 2009 đến 2022, lực lượng an ninh chính trị nội bộ đã phối hợp thu thập, nghiên cứu hơn 500 đề tài, bản thảo; kiến nghị không cho xuất bản hoặc sửa chữa lại nội dung trước khi xuất bản 350 đề tài, bản thảo; ngừng phát hành, thu hồi, tiêu hủy 150 ấn phẩm có nội dung phức tạp, nhạy cảm, vi phạm; xử phạt vi phạm pháp luật trên lĩnh vực xuất bản hơn 760 trường hợp. 

Khi những ý đồ thâm hiểm không phát huy dưới dạng “chính ngạch”, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động thông qua phương thức cũ đó là tán phát sách, báo xấu độc theo con đường “tiểu ngạch”, nhất là trên không gian mạng. 

Sách, báo xấu độc chủ yếu được xuất bản dưới chế độ cũ trước năm 1975, sau này in ấn ở hải ngoại. Dù là thể loại hư cấu hay phi hư cấu, sách, báo xấu độc đều có chung một số đặc điểm về nội dung, đó là: Ra sức cổ vũ quan điểm thù địch, chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam; kêu gọi người dân không chấp nhận Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; phủ định lý luận về chủ nghĩa xã hội và sự đúng đắn tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đòi xét lại lịch sử, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của các anh hùng dân tộc, lãnh tụ của Đảng, các bậc tiền bối cách mạng; khoét sâu vào những mặt trái của xã hội nhằm phủ nhận thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân...

Đáng lo ngại là một số cá nhân chuyên kinh doanh sách, báo, dịch vụ in ấn nhận thấy sách, báo xấu độc bị cấm phổ biến, lưu hành là “hàng hiếm” nên đã sưu tập, tái sản xuất, bày bán công khai trên mạng xã hội dưới dạng sách in và sách điện tử. Chỉ cần đặt hàng trên mạng xã hội, bất cứ tác phẩm xấu độc nào trong vài giờ đã có thể chuyển đến tận tay người có nhu cầu.

Vấn đề đáng bàn là vì sao sách, báo xấu độc do các tác giả phản động lại có thể “đội mồ sống dậy” lưu hành dễ dàng mà các cơ quan chức năng chưa kịp thời ngăn chặn?

Kết hợp giữa phòng và chống hiệu quả

Chúng ta cần xác định phương thức tán phát, phổ biến sách, báo xấu độc là thủ đoạn mà các thế lực thù địch sẽ không bao giờ từ bỏ. Cho nên, đấu tranh với sách, báo xấu độc là việc làm lâu dài, thường xuyên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt cần chú ý kết hợp giữa phòng và chống một cách linh hoạt, tùy từng trường hợp cụ thể để mang lại hiệu quả thực chất.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”. 

Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, với lĩnh vực xuất bản, ông Nguyễn Nguyên, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông), Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam cho rằng: Trước hết, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan xuất bản, cơ quan chủ quản trong công tác xuất bản với yêu cầu giữ vững tôn chỉ, mục đích, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, biên tập viên, thực hiện chặt chẽ quy trình xuất bản, thẩm định kỹ nội dung bản thảo, tránh để xảy ra sai sót nội dung nghiêm trọng về chính trị.

Cùng với đó, công tác hậu kiểm cần tiếp tục được đẩy mạnh nhằm ngăn chặn triệt để các xuất bản phẩm có nội dung vi phạm quy định Luật Xuất bản; các cơ quan bảo vệ pháp luật triển khai đồng bộ các giải pháp đấu tranh, xử lý những ấn phẩm lưu hành bất hợp pháp, nhất là các ấn phẩm có nội dung xấu độc. Riêng với các địa chỉ lưu giữ, tán phát xuất bản phẩm xấu độc trên không gian mạng, cần phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng an ninh chính trị nội bộ, an ninh mạng tập trung sử dụng những biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn hoạt động và sức phổ biến, tiếp cận đến với người đọc.        

Theo ông Nguyễn Thái Bình, Phó giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, vấn nạn sách, tài liệu xấu độc được in ấn, mua bán công khai hiện nay là nguy cơ dẫn đến mất kiểm soát vì vô tình tạo thói quen, hành vi vi phạm pháp luật cho bạn đọc, người sử dụng thiếu hiểu biết. Các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc, xử lý bảo đảm đủ răn đe với những hành vi vi phạm pháp luật. Với những nhóm người có chủ ý thu lợi cá nhân hoặc có kế hoạch, chủ động tán phát sách, báo xấu độc cần phải bị xử lý hình sự để răn đe những đối tượng khác. Với những cá nhân nhỏ lẻ, nếu chỉ hám lợi đơn thuần thì sớm tiếp cận, nhắc nhở.

Ông Nguyễn Thái Bình cũng nhấn mạnh đến vai trò của các cấp ủy Đảng cần chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên để cán bộ, đảng viên không tìm hiểu, không tiếp cận với sách, báo xấu độc; xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ, đảng viên phổ biến, giới thiệu sách, báo xấu độc dưới bất cứ hình thức nào. Đặc biệt, đối với các cơ quan quản lý nhà nước cần phải chủ động trong truyền thông chính sách, giúp cho người dân hiểu và làm việc theo pháp luật. Phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong hoạt động tuyên truyền miệng để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân không mua bán, tàng trữ, sử dụng, phổ biến sách, báo xấu độc; đồng thời, nâng cao khả năng nhận diện nội dung xấu độc, tham gia đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một giải pháp mà các chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản, phát triển văn hóa đọc nhiều lần nhắc đến, đó là: Ngành xuất bản cần tiếp tục nỗ lực xuất bản, giới thiệu nhiều sách, báo có nội dung lành mạnh, nhân văn, có giá trị học thuật dưới nhiều hình thức đa dạng, hấp dẫn, gắn với phát triển văn hóa đọc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, tác động tích cực để xây dựng nhận thức đúng đắn, bồi đắp tâm hồn, nâng cao dân trí cho nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Cách mạng tự thân - Yêu cầu khách quan để Đảng Cộng sản Việt Nam trường tồn, vững bước

Cách mạng tự thân là một trong những thuộc tính rất quan trọng của Học thuyết Mác - Lênin; là đáp án cho sự thành, bại của một chính Đảng Mácxít. C.Mác từng nhấn mạnh: “Chính đảng chủ nghĩa Mác muốn hoàn thành sứ mệnh cho cao cả, cần phải tự cách mạng”. Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 94 năm qua đã lãnh đạo toàn dân đứng lên làm cách mạng, rồi tự cách mạng bản thân để làm cho mình thật trong sạch. Nhờ đó Đảng ta không ngừng vững mạnh, bắt nhịp cùng hơi thở thời đại, ngày càng tiên tiến, đạo đức và văn minh.

Vì sao phải cách mạng tự thân?

Thứ nhất, cách mạng tự thân là một thuộc tính quan trọng mà học thuyết Mác - Lênin đã chỉ dẫn.

C.Mác chỉ rõ: “Biện chứng không tôn thờ bất cứ điều gì, theo bản chất của nó, nó là phê phán và mang tính cách mạng”. Tính phê phán và tính cách mạng này không chỉ thể hiện trong đối tượng của cách mạng, mà còn thể hiện đối với bản thân một chính đảng Mácxít. Trong sứ mệnh cải tạo thế giới khách quan, con người cũng không ngừng cải tạo thế giới chủ quan của mình, làm cho thế giới chủ quan phù hợp với thế giới khách quan. Vậy nên, một chính đảng Mácxít muốn trường tồn tất yếu phải không ngừng cách mạng tự thân.

Thứ hai, cách mạng tự thân - bài học từ thực tiễn một số nước trên thế giới.

Ở Liên Xô, ngay từ buổi đầu xây dựng chính quyền Xôviết, V.I.Lênin đã cảnh báo: “Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất, có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sữa chữa”. Điều đó cho thấy, cùng với thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch từ bên ngoài, những lầm lẫn chuyển hóa thành sai lệch từ bên trong và những “giặc nội xâm”… tất cả hợp thành kẻ thù nguy hiểm nhất tiêu diệt một chính đảng Mácxít hoặc làm cho chính đảng Mácxít ấy tự rã rời, tự băng hoại, tự sụp đổ bất cứ lúc nào. Câu chuyện Liên Xô sụp đổ có nhiều nguyên nhân, trong đó, một trong những nguyên nhân quan trọng là sự lơ là, không chăm lo đến công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng; thậm chí phạm sai lầm nghiêm trọng: buông lỏng rồi đi đến xoá bỏ điều 6 trong Hiến pháp của Liên Xô. Nhấn mạnh về điều này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản (tháng 4/1992) đã chỉ ra nguyên nhân chính là “việc “buông lơi” công tác xây dựng Đảng, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước Nhân dân, không được Nhân dân ủng hộ chính là tử huyệt, là nấm mồ chôn một thời huy hoàng của Liên Xô” Khác với Liên Xô, bài học từ sự thành công kỳ diệu của Trung Quốc là minh chứng sống động của việc một chính Đảng luôn biết làm “cách mạng bản thân”, xem đó là “đáp án thứ hai để Đảng Cộng sản Trung Quốc nhảy ra khỏi vòng chu kỳ lịch sử hưng thịnh suy tàn” để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới. Ở Trung Quốc, kể từ sau Đại hội lần thứ XVIII đến nay, vấn đề “cách mạng bản thân” luôn được nhấn mạnh. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình nêu rõ: “Để Đảng ta luôn là người tiên phong của thời đại, là xương sống của dân tộc và luôn là Đảng cầm quyền theo chủ nghĩa Mác, bản thân nó phải vượt trội. Điều gì được coi là vượt trội, đó là dám tiến hành cách mạng bản thân”. Qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn nhìn nhận rõ về các vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng, khiến Đảng bị suy yếu, bị hư hoá, bị mờ nhạt hoá, trở nên “hai mặt” về chính trị, “thiếu can xi tinh thần”, “bốn tác phong xấu”, vấn nạn tham nhũng… Từ đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương: lấy đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân, kiên trì “rèn sắt” để “bản thân thật cứng”, đi sâu thúc đẩy quản lý Đảng nghiêm minh, toàn diện. Nhờ đó, “đã khắc phục được những tiêu cực mà nhiều năm nay không thể khắc phụ được; chữa khỏi nhiều căn bệnh trong Đảng mà nhiều năm Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa thể chữa khỏi được”. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Trung Quốc thời gian qua đã giành được những thắng lợi quan trọng, góp phần củng cố toàn diện chính trị, loại bỏ những hiểm hoạ, rủi ro nghiêm trọng, mở ra thời kỳ mới cho cuộc cách mạng bản thân của Trung Quốc như hiện nay.

Có thể nói, Liên Xô - Trung Quốc là hai gam màu tối - sáng để Đảng ta chiêm nghiệm và đúc rút những bài học kinh nghiệm quý cho sự lãnh đạo của mình. Vậy nên, trong bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Trong điều kiện mới, Đảng ta cần quan tâm và phát huy hơn nữa tinh thần tự cách mạng triệt để, tự soi, tự sửa mình để Đảng ta thực sự là một chính Đảng Mácxít chân chính, giữ vững vị thế, vai trò lãnh đạo để trường tồn cùng dân tộc.

Thứ ba, cách mạng tự thân là yêu cầu khách quan để có thể đáp ứng với cục diện thế giới và trong nước đầy biến động hiện nay.

Cục diện thế giới, trong nước hiện nay với rất nhiều biến động phức tạp, khó lường, khó đoán định, khó dự báo cùng những nguy cơ tiềm tàng ảnh hưởng đến sự tồn vong của một chính Đảng Mácxít. Một không gian hội nhập sâu rộng, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, không gian 4.0 lan toả nhiều chiều… Đối mặt với nhiều mâu thuẫn mới, thách thức mới, nếu Đảng ta không đủ nhạy bén, không thấu suốt xu hướng phát triển mà kịp thời đề ra chủ trương, quyết sách đúng đắn thì sẽ không bắt nhịp cùng thời cuộc, thậm chí sẽ bị bỏ lại phía sau. Nếu Đảng ta không tự cách mạng bản thân triệt để, không nâng cấp mình để ngang tầm với nhiệm vụ mớithì những nguy cơ tiềm tàng (nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tụt hậu xa hơn về kinh tế, nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch) đã được Đảng ta chỉ ra từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994), cộng với đó là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi… tất cả sẽ là những hiểm hoạ khôn lường ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng. Vì vậy, kiên trì làm cách mạng tự thân là nhu cầu khách quan của Đảng để có thể ứng phó với những rủi ro, nguy cơ, thách thức, để Đảng ta mãi trường tồn cùng nhịp đập thời đại.

Thứ tư, cách mạng tự thân là yêu cầu khách quan để Đảng ta hiện thực hoá mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước.

Đảng ta vì lợi ích của nhân dân mà sinh ra “ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Trong giai đoạn mới, việc hiện thực hoá mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” theo tinh thần Nghị Quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đang bước vào thời kỳ then chốt. Để đạt được mục tiêu đó không phải dễ dàng, không phải kiểu “đánh trống khua chiêng” là có thể thực hiện được, mà Đảng phải tự cách mạng bản thân với một tinh thần “quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa…”; “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ… Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị…”. Có như vậy mới giúp Đảng ta nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu nhằm ứng phó với nguy cơ, thách thức, hiện thực hoá mục tiêu đề ra.

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2024

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong tình hình hiện nay

 Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh”, “giặc nội xâm”, là “nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ”, trở ngại lớn đối với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước; gây mất niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được điều đó, Đảng ta luôn nhấn mạnh rằng công tác phòng, chống tham nhũng trong bất cứ thời đại nào cũng mang mục đích đảm bảo sự tồn vong của chế độ, giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với giai cấp cầm quyền.

Công tác phòng, chống tham nhũng là một công tác thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để đảm bảo hiệu quả của công tác này. Thời gian vừa qua, với công cuộc “đốt lò” ấn tượng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, với những ý đồ thâm độc của các thế lực thù địch từ trước đến nay vẫn luôn muốn chống phá đất nước ta nhằm hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng của ta. Đứng trước những quan điểm sai trái, thù địch đó, chúng ta cần phải tỉnh táo, nhìn nhận một cách khách quan và đưa ra những luận cứ xác đáng để đấu tranh, phản bác lại chúng. 

Việc chống tham nhũng là một công tác vô cùng quan trọng để đảm bảo sự trong sạch, công bằng và phát triển bền vững của đất nước. Việc xử lý nghiêm các cán bộ, đảng viên có dính líu đến các vụ án tham nhũng không chỉ là để trừng phạt hành vi sai trái của họ, mà còn là để đánh giá, cải cách hệ thống chính trị, giúp cho Chính phủ hoạt động tốt hơn, cải thiện hành vi của người quản lý và bảo vệ quyền lợi của người dân. Việc chống tham nhũng không phải là một cuộc “đàn áp”, mà là một nỗ lực chung của toàn xã hội nhằm bảo vệ tài sản công và đảm bảo sự công khai, minh bạch của các tổ chức, cá nhân. Những luận điệu như “Làm nhiều, sai nhiều. Làm ít, sai ít. Không làm, không sai” chỉ thể hiện sự tiêu cực và thiếu trách nhiệm của những người đang sử dụng chúng. Chúng ta đang thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng một cách nghiêm túc, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc công bằng, minh bạch và đầy đủ trách nhiệm để khuyến khích sự cống hiến của các cán bộ, đảng viên. Theo đó, chúng ta không thể để các thế lực thù địch đưa ra các luận điệu để hướng lái nới lỏng công tác phòng, chống tham nhũng. Cần phải duy trì một sự nghiêm khắc trong việc chống tham nhũng và đảm bảo các cán bộ, đảng viên có trách nhiệm của mình trong việc phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của công tác này, giúp họ hiểu được tác động tích cực của việc phòng, chống tham nhũng đến cuộc sống và phát triển của đất nước.

 1. Hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian gần đây

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch vẫn ngày càng chống phá quyết liệt và sử dụng những thủ đoạn hết sức tinh vi, gây ra những hậu quả nhất định cho ta, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn đánh giá: Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”[3]. Do đó, từ việc nhận diện những luận điệu sai trái, xuyên tạc về công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta của các thế lực thù địch, cần phải đi đôi với việc kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phải: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”[4].

Đảng ta xác định công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh lâu dài và phải được triển khai thường xuyên, liên tục. Do đó, thời gian vừa qua, chúng ta đã chủ động đấu tranh với hoạt động này một cách tích cực nhất.

Góp phần vào hiệu quả công tác đấu tranh này phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các phương tiện truyền thông trên không gian mạng. Chúng ta đã tích cực đấu tranh trên mặt trận truyền thông này một cách triệt để nhằm định hướng dư luận, tuyên truyền những thông tin chính thống đến đông đảo quần chúng, đập tan những âm mưu nhằm hướng lái công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của ta đi lệch khỏi quỹ đạo vốn có của nó. Theo đó, chúng ta đã xây dựng, sản xuất các sản phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm về những nội dung lý luận liên quan đến công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trên in-tơ-nét, các ứng dụng trên mạng xã hội. Trực tiếp xây dựng và phát triển các trang fanpage với mục đích định hướng dư luận, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trên mạng xã hội; sử dụng các nickname tài khoản mạng xã hội tham gia các diễn đàn, truy cập vào các trang mạng của đối tượng viết bài phản kích dưới dạng các bình luận. Thông qua hoạt động này, chúng ta đã thực hiện nhiều chương trình, chuyên mục, bài viết phản kích các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc quan điểm sai trái, thù địch của đối tượng. Từ đó mà củng cố niềm tin của nhân dân vào chính quyền, luôn luôn lắng nghe, thấu hiểu những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.

Bên cạnh đó, vai trò của báo chí trong việc định hướng dư luận, phản biện xã hội cũng đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở công tác nắm tình hình, phát hiện các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng, chúng ta đã tiến hành tổ chức đưa tin để phản bác. Qua đó, các cơ quan thông tấn, báo chí đã tăng cường đăng cái bài viết mang tính chất phản bác lại, định hướng dư luận với những luận cứ thuyết phục nhất.

Có thể thấy công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định song vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần khắc phục như: (i) Công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng đôi lúc còn chưa kịp thời, dẫn đến chúng quy chụp Đảng ta không dám nói, thừa nhận những luận điệu của chúng. Làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân; (ii) một số cán bộ trực tiếp đấu tranh, phản bác còn hạn chế về kỹ năng diễn đạt, viết bài phản bác, chưa thực sự đủ sức thuyết phục, “nghèo nàn” về luận cứ, luận điểm dẫn đến việc phản bác chưa thực sự hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, “mị dân” của thế lực thù địch; (iii) chưa phát huy hết vai trò của các cơ quan báo chí trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng với các cơ quan báo chí còn chưa thật sự đống bộ, liên tục và chưa có cơ chế phối hợp một cách hợp lý; (iv) chưa huy động tối đa vai trò của quần chúng nhân dân trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng.   

2. Một số đề xuất giải pháp, khuyến nghị

Trước những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta trong thời gian qua, Đảng ta đã tiếp tục nhấn mạnh: “Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt”[5]. Trên cơ sở nhận định trên, Đảng ta tiếp tục khẳng định sự quyết tâm, cũng như trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn: “Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm”[6]. Vì thế, để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới, tác giả xin đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị cơ bản sau: 

Thứ nhất, Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới. Việt Nam đang trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đây cũng là tiền đề, điều kiện để các thế lực thù địch, các phần tử phản động tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc, đưa ra những quan điểm sai trái, thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta, đặc biệt chúng triệt để tấn công vào công tác phòng, chống tham nhũng của Việt Nam trong xuyên suốt thời gian vừa qua.

Thứ hai, tập trung đầu tư vào chương trình đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng cho cán bộ trực tiếp đấu tranh, phản bác; chú trọng hướng dẫn kỹ năng diễn đạt, viết bài phản bác. Đồng thời, cần thiết lập các chương trình đào tạo liên ngành để tăng cường sự hiểu biết và tư duy toàn diện về những luận điệu của các thế lực thù địch.

 Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức cơ quan thông tấn, báo chí trong việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Thông qua các hoạt động của báo chí giúp tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng.

Bốn là, huy động quần chúng nhân dân tham gia vào đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là lực lượng đông đào, góp phần thực hiện thắng lợi trên mọi mặt trận, do đó cần phải triệt để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân vào công cuộc đấu tranh này. Mỗi quần chúng là một “chiến sĩ”, với việc được trang bị đầy đủ kiến thức, nhận diện một cách đầy đủ, chính xác về các luận điệu “mị dân” của thế lực thù địch thì quần chúng nhân dân hoàn toàn có thể đấu tranh, phản bác lại các quan điểm sai trái, thù địch này.

Có thể thấy, đất nước ta vẫn đang trong tiến trình hội nhập và phát triển, công tác phòng, chống tham nhũng vẫn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của Đảng, các thế lực thù địch vẫn sẽ luôn “bấu víu” vào công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng ta để đưa ra các luận điệu “mị dân”, phủ nhận những thành quả mà ta đã đạt được trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về công tác phòng, chống tham nhũng vẫn sẽ luôn là công tác thường xuyên, liên tục của Đảng để từ đó tiến tới xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đảng cầm quyền.

 

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2024

Không thể xuyên tạc, phủ nhận chức năng, thành quả lao động sản xuất của Quân đội

 

Tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng là một chức năng cơ bản, nhiệm vụ vẻ vang, thể hiện sâu sắc bản chất, truyền thống của của Quân đội nhân dân Việt Nam. Điều đó đã được lý luận khẳng định, thực tiễn chứng minh, Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận. Nhưng với mưu đồ chống phá thâm độc, các thế lực thù địch đã cố tình xuyên tạc, phủ nhận. Đây là vấn đề không mới nhưng rất nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.  

Từ lâu, các thế lực thù địch, phần tử bất đồng chính kiến, cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách chống phá, hòng làm suy yếu Quân đội - công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Thời gian gần đây, lợi dụng chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, các đối tượng này mở màn “ca tụng”, “khen ngợi”, bày tỏ sự “đồng thuận”, “nhất trí cao” rồi “hiến kế”, “đề xuất”: “Đất nước đã phát triển có đủ tiềm lực kinh tế đầu tư cho quốc phòng, cho xây dựng Quân đội hiện đại, vì thế đã đến lúc Quân đội không cần phải tham gia lao động sản xuất, không cần kết hợp quốc phòng với kinh tế nữa mà tập trung bảo vệ Tổ quốc”, “Để tinh, gọn, mạnh, hiện đại như mục tiêu đã xác định thì Quân đội tập trung vào xây dựng lực lượng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, không tham gia làm kinh tế”… Họ còn tỏ ra “lo lắng” khi Quân đội “Tham gia làm kinh tế không xứng với vị thế của một đội quân chính quy, hiện đại”. Thâm hiểm hơn chúng bới móc hạn chế, sai phạm của một số tập thể, cá nhân đã bị xử lý kỷ luật, rồi quy chụp, phủ nhận thành quả tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội và “phán” rằng: “Vì tham gia làm kinh tế nên Quân đội mất cán bộ, giảm sút lòng tin của Nhân dân”!

Những luận điệu xảo biện đó không công kích trực diện mà núp bóng tinh vi dưới vỏ bọc “ý kiến đề xuất”, “đóng góp tâm huyết” nên đã làm một số quần chúng do hiểu biết hạn chế, nhận thức giản đơn về chính trị ngộ nhận, từ đó bình luận, chia sẻ trên các trang cá nhân mạng xã hội, vô tình tiếp tay cho chúng.

Nhìn nhận một cách hệ thống, chúng ta thấy, thực chất của các luận điệu trên vẫn chỉ là chiêu trò “bình mới, rượu cũ”. Bản chất phía sau vẫn là dã tâm mà chúng không hề từ bỏ là chống phá Quân đội, chống phá đường lối của Đảng. Mục đích chúng hướng đến là xuyên tạc, phủ nhận chức năng “đội quân lao động sản xuất”, sâu xa hơn xuyên tạc bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân và truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam; xuyên tạc chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế của Đảng. Đặc biệt, chúng hướng lái, cổ súy cho việc xây dựng Quân đội theo kiểu quân đội nhà nghề của các nước phương Tây. Đây là ý đồ hết sức thâm độc, được ngụy trang rất tinh vi, nhằm thẩm thấu vào tư tưởng của cán bộ, quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, gây tâm lý hoài nghi, nhận thức không đầy đủ, sai lệch về chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta.

Để thấy rõ tính chất phản động, sự xuyên tạc trắng trợn, lố bịch của các thế lực thù địch về chức năng, nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội và chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế của Đảng, cần nghiên cứu, nhận thức vấn đề này một cách thấu đáo, khách quan, khoa học cả về lý luận và thực tiễn.

Phải khẳng định rằng, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là quy luật tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia. Đối với nước ta, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế và Quân đội tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần xây dựng đất nước là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng trong mọi giai đoạn cách mạng. Quan điểm đó được hình thành trên cơ sở lịch sử truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước” của dân tộc, từ những bài học quý về chính sách “ngụ binh ư nông”, “tĩnh vi nông, động vi binh” của ông cha ta và xuất phát từ lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.

Quân đội ta là quân đội cách mạng, “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”. Lao động sản xuất là một trong ba chức năng cơ bản của Quân đội được xác lập từ ngày đầu thành lập, thể hiện rõ đặc trưng, bản chất, truyền thống của đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ và là điểm khác biệt căn bản với quân đội tư sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Tham gia sản xuất là một nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ giao cho Quân đội”1. Và trên thực tế, “nhiệm vụ vẻ vang” đó luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất; Quân đội quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.

Nhìn lại chặng đường gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nắm vững và hoàn thành xuất sắc chức năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân tin tưởng giao phó. Đối với chức năng “đội quân lao động sản xuất” được toàn quân thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp sáng tạo, phù hợp trong từng giai đoạn cách mạng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quán triệt quan điểm “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của Đảng, các đơn vị Quân đội vừa chiến đấu, vừa tích cực tăng gia, sản xuất cải thiện đời sống, đảm bảo cho bộ đội “ăn no, đánh thắng”. Các “công binh xưởng” được thành lập và đã sản xuất hàng triệu tấn vũ khí, trang bị, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng, phát triển chiến tranh nhân dân.  Sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thực hiện chủ trương của Đảng, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Quân đội chuyển sang làm nhiệm vụ lao động, sản xuất, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa đem lại nhiều thành quả quan trọng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội tích cực tham gia xây dựng hậu phương lớn miền Bắc, đồng thời, đẩy mạnh sản xuất xây dựng căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần trên chiến trường miền Nam, tạo nguồn vật chất tại chỗ to lớn đảm bảo cho tác chiến, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Đất nước thống nhất, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã ban hành Nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới; trong đó xác định: “Các lực lượng vũ trang, kể cả các đơn vị thường trực, phải tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đối với tất cả trai tráng và chế độ Quân đội tham gia xây dựng kinh tế”2. Đến Đại hội IV (tháng12/1976), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Trong hoàn cảnh một nước nghèo lại vừa ra khỏi một cuộc chiến tranh ác liệt, kéo dài, thì các lực lượng vũ trang, ngoài nghĩa vụ luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, còn phải tích cực làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”3. Thực hiện chủ trương của Đảng, Quân đội đã xung kích trên mặt trận hàn gắn vết thương chiến tranh, tham gia củng cố, phát triển kinh tế - xã hội và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, sát cánh cùng toàn dân đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.

Trong giai đoạn mới, tư duy của Đảng về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế và Quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng đất nước tiếp tục được nhất quán khẳng định qua các kỳ Đại hội. Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng ta chỉ rõ: “Từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Trên cơ sở bảo đảm nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và sản xuất quốc phòng, huy động một phần lực lượng Quân đội, sử dụng một phần năng lực công nghiệp quốc phòng vào việc xây dựng kinh tế”4; “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”5, v.v.

Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định về nhiệm vụ tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế để lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân thống nhất tổ chức thực hiện. Đáng chú ý là: Nghị quyết số 71/ĐUQSTW, ngày 25/4/2002 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quan ủy Trung ương) “Về nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội”; Nghị quyết số 520-NQ/QUTW, ngày 25/9/2012 của Quân ủy Trung ương “Về lãnh đạo nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2020”; Nghị quyết số 820-NQ/QUTW, ngày 17/12/2021 về “Lãnh đạo nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng của Quân đội đến năm 2030”, v.v.

Theo đó, việc thực hiện chức năng “đội quân lao động sản xuất”, tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội ngày càng đi vào chiều sâu, phù hợp với chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh trong giai đoạn mới. Nổi bật là, Quân đội đã phát huy vai trò xung kích trong tham gia xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng tiềm lực, thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” vững chắc, đặc biệt trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. Các đơn vị Quân đội đã chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và trực tiếp tổ chức xây dựng hàng chục khu kinh tế - quốc phòng, tạo việc làm cho hàng trăm nghìn hộ dân, hình thành các điểm, cụm dân cư trên vành đai biên giới, khu vực xung yếu, tạo thế bố trí chiến lược mới trên các địa bàn, hướng chiến lược của đất nước. Các doanh nghiệp Quân đội không ngừng phát triển, hội nhập, xung kích thực hiện các dự án kinh tế - xã hội kết hợp quốc phòng, an ninh, nhất là ở địa bàn khó khăn. Nhiều doanh nghiệp Quân đội khẳng định được thương hiệu, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và là lực lượng dự bị mạnh về quốc phòng. Ngành công nghiệp quốc phòng làm chủ nhiều công nghệ lưỡng dụng tiên tiến, hiện đại, đóng góp tích cực vào xây dựng Quân đội từng bước hiện đại và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các đơn vị thường trực, sự nghiệp công lập tích cực tăng gia, sản xuất và làm một số dịch vụ theo quy định, tạo nguồn thu trực tiếp cải thiện đời sống bộ đội, tham gia có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng tiềm lực hậu cần trên địa bàn đóng quân, v.v.

Như vậy, cả phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy: Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật và điều kiện Việt Nam. Đặc biệt, kết quả đạt được trên “mặt trận lao động sản xuất” là thực tiễn sinh động khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc huy động Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế. Đồng thời, khẳng định ý thức, trách nhiệm chính trị, quyết tâm cao của Quân đội ta trong việc quán triệt, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Mặc dù còn một số khuyết điểm, hạn chế do những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, nhưng đó chỉ là cá biệt, “con sâu làm rầu nồi canh”. Thực tiễn hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội và những kết quả đạt được là minh chứng sắc bén nhất vạch trần thủ đoạn lập lờ đánh đồng hiện tượng với bản chất, bác bỏ luận điệu xuyên tạc vô lối, phản khoa học của các thế lực thù địch.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang đứng trước nhiều vận hội, thời cơ thuận lợi và cả khó khăn, thách thức đan xen. Kinh tế đất nước không ngừng phát triển và đạt những thành tựu to lớn. Đây là cơ sở quan trọng để Đảng, Nhà nước tăng cường đầu tư cho quốc phòng, xây dựng Quân đội. Tuy nhiên, nước ta vẫn ở nhóm các nước đang phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế mà Đảng ta chỉ ra ngày càng bộc lộ rõ; sức chống chịu của nền kinh tế trước những tác động bất lợi còn hạn chế. Nhu cầu đầu tư cho phát triển nói chung, cho xây dựng Quân đội nói riêng đòi hỏi rất lớn trong khi nguồn lực kinh tế đất nước còn có hạn. Trước bối cảnh đó, hơn bao giờ hết, Quân đội vừa làm tròn vai trò nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chức năng “đội quân lao động sản xuất”, tham gia có hiệu quả vào phát triển kinh tế, tạo nguồn lực xây dựng đất nước. Mặt khác, cần thấy rằng, Quân đội tham gia lao động sản xuất không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, tạo ra nguồn của cải vật chất, góp phần tăng cường tiềm lực đất nước, mà “mặt trận lao động sản xuất” còn là môi trường để cán bộ, chiến sĩ, nhất là thế hệ trẻ được thử thách, rèn luyện ý chí, bản lĩnh của người quân nhân cách mạng, bồi đắp tình yêu lao động, tinh thần tự lực tự cường, ý thức cần, kiệm, liêm, chính; tăng cường gắn kết tình đồng chí đồng đội, v.v. Qua đó, giúp họ trưởng thành, phát triển toàn diện, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Một thực tế nữa không thể phủ nhận là, thông qua thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” thêm ngời sáng, mối quan hệ gắn bó máu thịt quân dân càng thêm bền chặt, niềm tin yêu của Nhân dân dành cho Quân đội càng được nâng cao. Bởi vậy, dù ngụy biện thế nào thì luận điệu “đến lúc Quân đội không cần phải tham gia lao động sản xuất” hay “tham gia xây dựng kinh tế làm giảm sút lòng tin của nhân dân” là hoàn toàn lố bịch, không thể chấp nhận được.

Tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là chức năng cơ bản, nhiệm vụ vẻ vang, đặc trưng bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam là điều không thể phủ nhận. Tiếp tục nắm vững và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đó không chỉ là mệnh lệnh, trách nhiệm, nghĩa vụ, mà còn là niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là hành động thiết thực nhất để phản bác, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, từng bước hiện đại, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tô thắm thêm bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong thời kỳ mới.