Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2019


VẤN ĐỀ “TỰ DO NGÔN LUẬN, BÁO CHÍ” Ở VIỆT NAM

Trước thềm đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn lần thứ XIII của Đảng, các thế lực phản động, thù địch và một số phần tử cơ hội tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, dân tộc Việt Nam, trong đó có hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, phê phán Việt Nam không có tự do ngôn luận, báo chí. Chúng vu cáo Việt Nam là “áp đặt quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm các công ước quốc tế về quyền con người”, “đàn áp người bất đồng chính kiến”… Vậy thực chất quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam như thế nào?
Việt Nam luôn tuân thủ nghiêm túc các công ước, cam kết quốc tế về “nhân quyền”: về nhân quyền, luật pháp và các điều ước quốc tế đều khẳng định “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết”. Xuất phát từ quan điểm đó, Việt Nam có quyền  tự do quyết định thể chế chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng-an ninh của mình….và tự xây dựng pháp luật để thực hiện các quyền đó; đồng thời Việt Nam không can thiệp vào bất kỳ lĩnh vực nào, của bất cứ quốc gia nào. Như vậy, mặc nhiên dân tộc Việt Nam có quyền tự quyết định con đường cách mạng của riêng mình, không một quốc gia, một thế lực bên ngoài nào được phép can thiệp, chống phá. Con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng, của Chủ tịch Hồ CHí Minh và của dân tộc Việt Nam, không hề có chuyện “Chế độ Hà Nội là độc tài toàn trị”, Đảng Cộng sản Việt Nam “chiếm quyền” của dân, “đứng trên pháp luật”… như một số báo chí phương Tây và các thế lực phản động đang ra sức tuyên truyền.
Ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận báo chí được quy định ngay tại Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viêt Nam năm 3013: “Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”; đồng thời được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật, nghị định, như: Luật Báo chí (2016), Luật Tiếp cận thông tin (2016), Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-07-2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng…, hoàn toàn phù hợp về mặt pháp luật và tập quán quốc tế về quyền con người, quyền tự do ngôn luận, báo chí.

Việt Nam hiện đang là một quốc gia có hoạt động báo chí phát triển mạnh mẽ: sự phát triển của báo chí Việt Nam hiện nay cho thấy những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không chỉ được thể hiện ở quan điểm, đường lối; được bảo đảm bằng luật pháp mà thực tế Việt Nam đang có trên 36.000 người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí, hơn 18.000 nhà báo được cấp thẻ và hơn 22.000 hội viên Hội Nhà báo Việt Nam; 982 cơ quan báo, tạp chí được cấp phép hoạt động, 258 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí; 67 đài phát thanh, truyền hình với hơn 75 kênh truyền hình nước ngoài, cung cấp đầy đủ thông tin truyền thông của những hãng thông tấn, báo chí lớn như: CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg…có nhiều cơ quan báo chí nước ngoài, phóng viên thường trú tại Việt Nam. Như vậy, thực tế cho thấy, Việt Nam không hề “tước đoạt công cụ hỗ trợ quyền giám sát của người dân”, không hề “gieo rắc lo sợ về thực thi quyền tự do ngôn luận”. Đặc biệt trong công tác chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn lần thứ XIII của Đảng; Đảng, Nhà nước ta luôn luôn khuyến khích báo giới tích cực tham gia, góp phần làm tốt công tác nhân sự, chống chạy chức chạy quyền… và hơn nữa cũng xem đây là một lực lượng chống tiêu cực có hiệu quả cao, góp phần quan trọng vào thành công của kỳ đại hội.
Như vậy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tại Việt Nam là không thể phủ nhận. Những các nhân, tổ chức cố tình có hành vi xuyên tạc, bóp méo sự thật xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của dân tộc Việt Nam; làm tổn hại đến uy tín của Đảng cộng sản Việt Nam cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
DƯƠNG BÙI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét