Trong
thời kỳ tiến hành công cuộc đổi mới, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được đề cập một
cách thường xuyên và toàn diện; qua các đại hội gần đây, Đảng ta đều có những
điểm nhấn quan trọng. Đại hội X (năm 2006) tập trung vào “nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, Đại hội XI (năm 2011) lấy “Tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” làm một trong những thành tố
quan trọng của chủ đề Đại hội, Đại hội XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Tăng cường
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị.
Đại
hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, liên
quan đến sự tồn vong của Đảng và sự sống còn của chế độ. Đại hội đã nêu bật
những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, nhất là đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả
bước đầu Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị
số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bổ sung thêm nội dung về đạo đức trong công
tác xây dựng Đảng. Đó là cơ sở để “Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính
trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới.
Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(2).
Phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Đại hội XII đề ra dựa
trên những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ và cả 30 năm đổi mới. Chỉ
rõ những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta chủ trương phải đẩy mạnh hơn
nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Cùng với việc nhấn mạnh mục tiêu, yêu cầu
xây dựng Đảng “trong sạch, vững mạnh”, được coi là thành tố đầu tiên của chủ đề
Đại hội, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm đầu
tiên trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ là “tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng”. Hơn thế, trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả
nhiệm kỳ Đại hội XII, thì 2 nhiệm vụ đầu tiên là về công tác xây dựng Đảng, đó
là: 1- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ; 2- Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Giữa
xây dựng và chỉnh đốn Đảng có mối liên hệ chặt chẽ, cần được tiến hành đồng
thời và có tác động qua lại, bổ sung và bổ khuyết cho nhau.
Lịch sử Đảng ta cho thấy, xây dựng Đảng bao giờ cũng phải được xem là công việc
cơ bản, thường xuyên; chỉnh đốn Đảng được đặt ra cấp bách khi xuất hiện tình
hình đặc biệt cần có giải pháp để giúp Đảng xốc lại đội ngũ, vượt qua những khó
khăn, thử thách. Chính vì vậy, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi
hành Điều lệ Đảng tại Đại hội XIII đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, toàn
diện, hiệu quả giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong đó xây dựng Đảng là nhiệm
vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, cấp bách; đồng thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm, khâu đột phá”(3).
Tiếp
tục truyền thống và kế thừa tinh thần của các đại hội trước đó, Đại hội XIII
của Đảng đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tầm quan
trọng của công tác xây dựng Đảng được thể hiện rõ cả trong chủ đề, bài học kinh
nghiệm, quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển.
Chủ
đề Đại hội XIII đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Điểm mới ở đây là đã bổ sung “xây dựng
hệ thống chính trị” cùng với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và không chỉ
đề cập đến xây dựng Đảng, mà còn nhấn mạnh cả đến chỉnh đốn Đảng.
Không
phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng lại xác định, đặt ra yêu cầu
đầu tiên là cần tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trên thực tế, xây dựng Đảng và
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có mối quan hệ biện chứng,
tác động qua lại lẫn nhau; trong đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng có vai trò
hạt nhân, quan trọng vì Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Đặc biệt là Đảng lãnh đạo, giới thiệu những đảng viên ưu tú của mình
ứng cử vào các vị trí chủ chốt của Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Xây
dựng Đảng phải gắn liền với xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; bởi lẽ, chỉ khi nào Nhà nước mạnh, liêm chính, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy mạnh mẽ vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của mình thì mới đưa được những đường lối, chủ trương của Đảng vào
cuộc sống. Nói cách khác, Đảng muốn vững mạnh và thể hiện được vai trò lãnh đạo
toàn diện của mình thì Nhà nước cũng phải được xây dựng vững mạnh, liêm chính,
vì Nhà nước chính là người thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, đưa các
quyết sách lãnh đạo của Đảng thành chính sách, pháp luật, chương trình, kế
hoạch cụ thể, sát hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Cũng như vậy, Đảng và
Nhà nước chỉ vững mạnh, hoàn thành được nhiệm vụ của mình khi và chỉ khi có Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy hết vai trò,
trách nhiệm, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước thành hành động thực tế của nhân dân, thể hiện quyền làm chủ
của nhân dân và bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh còn giúp
cho Đảng có được mối quan hệ mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng
tạo, khát vọng phát triển vì một Việt Nam hùng cường, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, khuyến khích, động viên nhân dân tích cực tham gia xây dựng
Đảng và Nhà nước; đáp ứng ngày càng tốt hơn sự kỳ vọng, xứng đáng với sự gửi
gắm niềm tin của nhân dân.
Như
vậy, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh là yêu cầu quan trọng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền của Đảng, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, sự
phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa nước ta phát triển
nhanh, bền vững. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, do
vậy, là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi, thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong suốt 35 năm
qua.
Nhìn
chung, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong nhiệm kỳ
Đại hội XII đã đạt được kết quả nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực; sắp xếp tổ chức bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và
tinh giản biên chế của hệ thống chính trị; đổi mới công tác cán bộ và ngăn chặn
tình trạng chạy chức, chạy quyền; tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng,
xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, không có vùng
cấm, không có ngoại lệ. Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm
kỳ vừa qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Đảng ta đoàn kết, thống
nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng
cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền
vững trong những năm tới(4).
Một
số hạn chế, yếu kém cần được tập trung xử lý
Một là, công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung vẫn còn nhiều hạn
chế cần khắc phục.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra
những hạn chế, khuyết điểm của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị: Việc tổ chức thực hiện một số nghị quyết của Đảng vẫn là khâu
yếu. Công tác tư tưởng còn có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục
chưa cao. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, thiếu gương mẫu. Tự
phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu
gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng. Việc hoàn
thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình
thực tiễn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.
Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động ở một số nơi thực hiện thiếu quyết liệt, chưa đạt mục tiêu đề ra; cá
biệt có nơi còn nóng vội, chưa có bước đi vững chắc. Tinh giản biên chế mới tập
trung giảm số lượng, chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng vị trí việc làm còn nhiều lúng túng,
tiến độ triển khai còn chậm so với mục tiêu đề ra. Năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, chưa được củng cố kịp thời. Chính
sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc;
chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm,
dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong
hành động vì lợi ích chung.
Hai là, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói riêng và hệ thống chính trị nói
chung còn nhiều bất cập, chậm được đổi mới.
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức,
phương pháp, cách thức, quy chế, quy định, quy trình, phong cách, lề lối… mà
Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi cương
lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng
thắn nhìn nhận: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn
chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và
Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc thể chế hóa,
cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước
chưa đầy đủ, kịp thởi. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng
chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình
trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức
đảng còn xảy ra ở một số nơi”(5).
Có thể thấy, việc phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
trách nhiệm giữa các cơ quan, tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước chưa thực sự
rõ ràng. Chưa có sự phân định thật rõ quyền hạn, trách nhiệm giữa Bộ Chính trị,
Ban Bí thư với Đảng đoàn Quốc hội và Ban Cán sự Đảng Chính phủ, cũng như giữa
ban thường vụ, thường trực cấp ủy với ban cán sự đảng ủy ban nhân dân, đảng
đoàn hội đồng nhân dân ở địa phương. Các quy chế phối hợp đã có, nhưng vẫn còn
tình trạng chung chung, khó triển khai trong thực tiễn. Cùng với đó, việc phân
định thẩm quyền, trách nhiệm giữa tập thể lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ
chức đảng với người đứng đầu cơ quan nhà nước còn chưa thật rạch ròi và còn
thiếu thống nhất, gây nên những chồng chéo, lúng túng nhất định trong chỉ đạo,
điều hành ở các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Ba là, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn chưa thực sự được đẩy
lùi, còn có những hiểu hiện, diễn biến phức tạp
Đảng ta là đảng cầm quyền, đội ngũ đảng viên nắm giữ hầu hết
các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, có quyền lực rất lớn và đi liền với
đó là nguy cơ tha hóa quyền lực, quan liêu, tham nhũng, biến chất, rơi vào chủ
nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm” cũng rất cao. Trên thực tế, những biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
kể cả ở cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao còn nhiều diễn biến tinh vi, phức tạp,
khó lường.
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay đã “làm tổn
thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng”, nếu không bị
ngăn chặn, đẩy lùi, thì đây sẽ “là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của
Đảng và chế độ”. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII của
Đảng đã xác định đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ là một nhiệm vụ trọng
tâm của công tác xây dựng Đảng.
Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả người đứng đầu, trước hết là do bản thân
những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân,
không đủ bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ. Do vậy, muốn ngăn chặn, đẩy lùi các
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thì phải bắt đầu từ
việc cán bộ, đảng viên “tự soi, tự sửa”. “Tự soi, tự sửa” là việc mỗi người
phải nghiêm túc tự kiểm điểm, tự nhìn lại mình; cái gì tốt thì phát huy, cái gì
khiếm khuyết thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa chữa.
Bốn là, chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng còn những
hạn chế.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực, kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng hiện vẫn còn những hạn chế. Không ít địa phương, cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra, giám sát còn chiếu lệ, hình thức, chưa quyết liệt, nên hiệu quả chưa cao, chưa đủ sức răn đe; đấu tranh với vi phạm vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, không nghiêm túc. Một số tổ chức đảng còn tỏ ra bị động trong phát hiện tiêu cực; công tác kiểm tra, giám sát chỉ được thực hiện khi có đơn tố cáo, thiếu kiểm tra chấp hành và giám sát thường xuyên, đã làm cho vai trò, uy tín của cấp ủy và tổ chức chính quyền bị giảm sút; nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, vi phạm kỷ luật, nhưng chỉ được phát hiện bởi báo chí, truyền thông, chứ không phải do tổ chức đảng hay cơ quan kiểm tra, giám sát... Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, giám sát; chưa kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo; việc xác định nội dung kiểm tra, giám sát còn dàn trải, chưa đi vào những lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực.Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần được nhận diện và nhanh chóng khắc phục.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét