Hai Bà Trưng – Hai nữ vương, danh tướng đầu tiên gương cao cờ nghĩa chống chủ nghĩa bành trướng đại Hán, đặt nền móng đầu tiên cho cuộc đấu tranh không mệt mỏi giành độc lập của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử và truyền
thuyết kể rằng: Hai Bà là chị em sinh đôi và sinh vào ngày mồng một tháng tám năm
Giáp Tuất (năm 14 sau công nguyên). Hai chị em Trưng
Trắc và Trưng Nhị vốn dὸng dōi vua Hùng, phát tích từ vùng đất
thiêng Mê Linh nay thuộc tỉnh Phú Thọ, là con gái của quan Lạc tướng vùng này. Trong
bối cảnh đất nước bị nhà Hán đô hộ, thân mẫu của Hai Bà Trưng là bà Man Thiện sớm
gόa bụa song đã nuôi dạy
con cái theo tinh thần thượng vō và yêu nước. Chồng Trưng Trắc là Thi Sách, con
trai một Lạc tướng huyện Chu Diên, bị Thái thú Tô Định của nhà Hán giết hại. Trước
cảnh nước mất nhà tan, Trưng Trắc cὺng em là Trưng
Nhị quyết tâm tiến hành khởi nghῖa đền nợ nước,
trả thù nhà. Tháng 3 năm 40, Hai Bà Trưng lập đàn thờ trên cửa sông Hát Giang
truyền lệnh khởi nghῖa. Nhân dân các quận Giao Chỉ, Nam Hải, Cửu
Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng nổi dậy hưởng ứng cuộc đấu tranh chống lại nhà Hán.
Hai Bà lập nên vương triều mới, đόng đô ở Mê Linh,
xưng hiệu là Trưng Vương. Hai năm sau, tướng nhà
Hán là Mã Viện mang hai vạn quân sang xâm lược nước ta. Do lực lượng yếu, Hai
Bà lui về Cẩm Khê và cầm cự với quân giặc hơn một năm trời. Cuối cùng,
sau khi bị thất bại, năm 43 Hai bà chạy về Hát Môn gieo mὶnh
xuống sông Hát Giang tự vẫn. Mặc dù giành quyền tự chủ đất nước trong một thời
gian ngắn (từ năm 40 đến năm 43) song tấm gương anh hùng, trung nghĩa của Hai
Bà đã khắc ghi vào lịch sử và tâm thức người
dân Việt Nam, làm vẻ vang cho phụ nữ Việt Nam và dân tộc Việt Nam.
Chuyện Hai Bà
Trưng được Đại Nam quốc sử diễn ca kể rằng:
Chị em nặng một
lời nguyền;
Phất cờ nương tử
thay quyền tướng quân;
Ngàn Tây nối áng
phong trần;
Ầm ầm binh mã xuống
gần Long Biên:
Hồng quần nhẹ bước
chinh yên;
Đuổi ngay Tô Định
dẹp yên biên thành.
Thư tịch cổ nhất
của nước ta có chép chuyện Hai Bà Trưng là bộ Đại Việt sử lược. Sách này cho
hay: “Trưng Trắc người huyện Mê Linh, con gái của quan Lạc tướng vùng này.
Trưng Trắc lấy chồng người huyện Chu Diên, tên là Thi Sách. Người vợ tính rất
hùng dũng, (Thi Sách) làm việc gì đó có sai phạm nên bị Thái thú Tô Định mượn
pháp luật để trừng trị (sát hại). Bà Trưng Trắc giận quá, bèn cùng với em gái
là Trưng Nhị khởi binh ở Phong Châu, đánh phá các quận huyện. Dân ở hai quận Cửu
Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng cả. Bà chiếm được 65 thành ở ngoài phía Nam của
nhà Hán rồi tự lập làm Vua, đóng đô ở huyện Mê Linh”.
Thư tịch cổ thứ
hai của nước ta có chép chuyện Hai Bà Trưng là bộ Đại Việt sử ký toàn thư do tiến
sĩ Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê biên soạn. Sách này có mấy đoạn rất đáng
chú ý về Hai Bà Trưng, như sau: “Năm Kỉ Hợi, đời Hán Quang Vũ Lưu Tú, niên hiệu
Kiến Vũ năm thứ 15,Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định, chính sự tàn tạo và tham
lam, Trưng Nữ Vương liền dấy binh để đánh”. “(Vua) tên quý là Trắc, họ Trưng,
nguyên họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh (Phong Châu), vợ của Thi
Sách ở huyện Chu Diên. Thi Sách cũng là con Lạc tướng. Con hai nhà Lạc tướng kết
hôn với nhau”. “Mùa xuân, tháng 2 (năm Canh Tí), Vua khổ vì Thái thú Tô Định
dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tô Định giết chồng mình, mới cùng với em gái
là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở các châu. Tô Định chạy về nước. Các quận Nam Hải,
Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều hưởng ứng. Trưng Trắc lấy được 65 thành rồi tự
lập làm Vua”.
Ngoài Đại Việt sử
lược và Đại Việt sử ký toàn thư, các thư tịch cổ tiếp sau của nước ta như Khâm định
Việt sử thông giám cương mục và một số bộ dã sử khác cũng chép chuyện Hai Bà
Trưng nhưng nhìn chung không có thông tin gì thêm.
Đọc các thư tịch
cổ viết về Hai Bà Trưng, cảm giác đầu tiên thường có ở hầu hết mọi người là: chừng
như tất cả chỉ mới dừng lại ở mức độ sơ bộ nhắc nhở về những sự kiện gắn liền với
Hai Bà Trưng chứ chưa đủ để làm thoả mãn ý nguyện hiểu biết của hậu thế về hai
nhân vật lịch sử kiệt xuất này. Sự bất nhất và sự giản lược của thư tịch cổ khiến
cho người đọc lấy làm tiếc. Không còn cách nào khác, phương pháp phổ biến của
giới sử học hiện đại vẫn là kết hợp chặt chẽ giữa việc phân tích và xử lí thư tịch
cổ với việc tổ chức khảo sát trên một bình diện ngày càng rộng để tìm kiếm thêm
các tài liệu có liên quan đến Hai Bà Trưng; trong đó, hai nguồn tài liệu mới
hơn được các nhà sử học đặc biệt chú ý là các tờ thần tích và truyền thuyết dân
gian.
Qua hàng ngàn năm
lịch sử của dân tộc Việt Nam, Hai Bà được mọi thời đại
đánh giá là tấm gương anh hùng liệt nữ, niềm kiêu hãnh của phụ nữ Việt Nam và của
đất nước, dân tộc Việt Nam. Ðến nay Hai Bà vẫn được bao phong đời đời, lửa hương
không dứt tại các đền thờ Hai Bà, tại các di tίch khởi nghῖa
và liên quan đến cuộc đời Hai Bà như Hát Môn, Hạ Lôi, Ðồng Nhân, …. Trong lịch
sử, văn hόa dân tộc Việt Nam, Hai Bà Trưng đã được
truyền thuyết dân gian tiếp nối qua nhiều đời và là một chân lу́ chόi
ngời trong đời sống tâm linh người Việt./.
bài rất hay
Trả lờiXóa