Thứ Ba, 22 tháng 8, 2023

HAI BÀ TRƯNG TRONG THƯ TỊCH CỔ

     Hai Bà Trưng – Hai nữ vương, danh tướng đầu tiên gương cao cờ nghĩa chống chủ nghĩa bành trướng đại Hán, đặt nền móng đầu tiên cho cuộc đấu tranh không mệt mỏi giành độc lập của dân tộc Việt Nam.

Lịch sử và truyền thuyết kể rằng: Hai Bà là chị em sinh đôi và sinh vào ngày mồng một tháng tám năm Giáp Tuất (năm 14 sau công nguyên). Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn dng dōi vua Hùng, phát tích từ vùng đất thiêng Mê Linh nay thuộc tỉnh Phú Thọ, là con gái của quan Lạc tướng vùng này. Trong bối cảnh đất nước bị nhà Hán đô hộ, thân mẫu của Hai Bà Trưng là bà Man Thiện sớm ga bụa song đã nuôi dy con cái theo tinh thần thượng vō và yêu nước. Chồng Trưng Trắc là Thi Sách, con trai một Lạc tướng huyện Chu Diên, bị Thái thú Tô Định của nhà Hán giết hại. Trước cảnh nước mất nhà tan, Trưng Trắc cng em là Trưng Nhị quyết tâm tiến hành khởi ngha đền nợ nước, trả thù nhà. Tháng 3 năm 40, Hai Bà Trưng lập đàn thờ trên cửa sông Hát Giang truyền lệnh khởi ngha. Nhân dân các quận Giao Chỉ, Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng nổi dậy hưởng ứng cuộc đấu tranh chống lại nhà Hán. Hai Bà lập nên vương triều mới, đng đô ở Mê Linh, xưng hiệu là Trưng Vương. Hai năm sau, tướng nhà Hán là Mã Viện mang hai vạn quân sang xâm lược nước ta. Do lực lượng yếu, Hai Bà lui về Cẩm Khê và cầm cự với quân giặc hơn một năm trời. Cuối cùng, sau khi bị thất bại, năm 43 Hai bà chạy về Hát Môn gieo mnh xuống sông Hát Giang tự vẫn. Mặc dù giành quyền tự chủ đất nước trong một thời gian ngắn (từ năm 40 đến năm 43) song tấm gương anh hùng, trung nghĩa của Hai Bà đã khắc ghi vào lịch sử và tâm thức người dân Việt Nam, làm vẻ vang cho phụ nữ Việt Nam và dân tộc Việt Nam.

Chuyện Hai Bà Trưng được Đại Nam quốc sử diễn ca kể rằng:

Chị em nặng một lời nguyền;

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân;

Ngàn Tây nối áng phong trần;

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên:

Hồng quần nhẹ bước chinh yên;

Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành.

Thư tịch cổ nhất của nước ta có chép chuyện Hai Bà Trưng là bộ Đại Việt sử lược. Sách này cho hay: “Trưng Trắc người huyện Mê Linh, con gái của quan Lạc tướng vùng này. Trưng Trắc lấy chồng người huyện Chu Diên, tên là Thi Sách. Người vợ tính rất hùng dũng, (Thi Sách) làm việc gì đó có sai phạm nên bị Thái thú Tô Định mượn pháp luật để trừng trị (sát hại). Bà Trưng Trắc giận quá, bèn cùng với em gái là Trưng Nhị khởi binh ở Phong Châu, đánh phá các quận huyện. Dân ở hai quận Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng cả. Bà chiếm được 65 thành ở ngoài phía Nam của nhà Hán rồi tự lập làm Vua, đóng đô ở huyện Mê Linh”.

Thư tịch cổ thứ hai của nước ta có chép chuyện Hai Bà Trưng là bộ Đại Việt sử ký toàn thư do tiến sĩ Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê biên soạn. Sách này có mấy đoạn rất đáng chú ý về Hai Bà Trưng, như sau: “Năm Kỉ Hợi, đời Hán Quang Vũ Lưu Tú, niên hiệu Kiến Vũ năm thứ 15,Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định, chính sự tàn tạo và tham lam, Trưng Nữ Vương liền dấy binh để đánh”. “(Vua) tên quý là Trắc, họ Trưng, nguyên họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh (Phong Châu), vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên. Thi Sách cũng là con Lạc tướng. Con hai nhà Lạc tướng kết hôn với nhau”. “Mùa xuân, tháng 2 (năm Canh Tí), Vua khổ vì Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Tô Định giết chồng mình, mới cùng với em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở các châu. Tô Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều hưởng ứng. Trưng Trắc lấy được 65 thành rồi tự lập làm Vua”.

Ngoài Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư, các thư tịch cổ tiếp sau của nước ta như Khâm định Việt sử thông giám cương mục và một số bộ dã sử khác cũng chép chuyện Hai Bà Trưng nhưng nhìn chung không có thông tin gì thêm.

Đọc các thư tịch cổ viết về Hai Bà Trưng, cảm giác đầu tiên thường có ở hầu hết mọi người là: chừng như tất cả chỉ mới dừng lại ở mức độ sơ bộ nhắc nhở về những sự kiện gắn liền với Hai Bà Trưng chứ chưa đủ để làm thoả mãn ý nguyện hiểu biết của hậu thế về hai nhân vật lịch sử kiệt xuất này. Sự bất nhất và sự giản lược của thư tịch cổ khiến cho người đọc lấy làm tiếc. Không còn cách nào khác, phương pháp phổ biến của giới sử học hiện đại vẫn là kết hợp chặt chẽ giữa việc phân tích và xử lí thư tịch cổ với việc tổ chức khảo sát trên một bình diện ngày càng rộng để tìm kiếm thêm các tài liệu có liên quan đến Hai Bà Trưng; trong đó, hai nguồn tài liệu mới hơn được các nhà sử học đặc biệt chú ý là các tờ thần tích và truyền thuyết dân gian.

Qua hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam, Hai Bà được mọi thời đi đánh giá là tấm gương anh hùng liệt nữ, niềm kiêu hãnh của phụ nữ Việt Nam và của đất nước, dân tộc Việt Nam. Ðến nay Hai Bà vẫn được bao phong đời đời, lửa hương không dứt tại các đền thờ Hai Bà, tại các di tch khởi ngha và liên quan đến cuộc đời Hai Bà như Hát Môn, Hạ Lôi, Ðồng Nhân, …. Trong lịch sử, văn ha dân tộc Việt Nam, Hai Bà Trưng đã được truyền thuyết dân gian tiếp nối qua nhiều đời và là một chân lу́ chi ngời trong đời sống tâm linh người Việt./.

1 nhận xét: