Phát biểu trước đội ngũ
cán bộ, đảng viên, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng đặt câu hỏi: “Tiền bạc lắm
làm gì, chết có mang đi được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý
nhất”. Câu hỏi đặt ra là tại sao khi đã lên đến những đỉnh cao về chức vụ,
quyền lực và tiền bạc thì không thiếu, mà không ít cán bộ vẫn liều lĩnh thực
hiện các hành vi phạm pháp? Ma lực nào đã thúc đẩy họ?
Nền kinh tế thị trường và
xã hội thị trường
Các vị
từng là Ủy viên Trung ương Đảng, bộ trưởng, bí thư, chủ tịch UBND thành phố,
một số người từng là anh hùng... vì dính vào tham nhũng, tiêu cực mà phải ngồi
tù sẽ sống những năm tháng còn lại của cuộc đời trong dằn vặt, tủi hổ. Vậy, tại
sao họ đánh đổi hoặc có thể nói là bán những thứ quý giá mà mình đang có, trong
đó quan trọng nhất là danh dự, sự tôn trọng của xã hội đối với mình để lấy
tiền?
Trong
nền kinh tế thị trường, đồng tiền có sự chi phối rất lớn. Nền kinh tế càng phát
triển thì vai trò của đồng tiền, giá trị của đồng tiền và sức hút của đồng tiền
cũng ngày càng lớn hơn. Dân gian ta lan truyền câu cửa miệng: “Cái gì không mua
được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền”. Nhưng có thật tiền sẽ mua
được mọi thứ? Và một xã hội tốt đẹp có nên để xảy ra tình trạng tiền mua được
mọi thứ?
Giáo sư
người Mỹ Michael J.Sandel đã đặt ra câu hỏi này trong cuốn: “Tiền không mua
được gì?” (What money can’t buy?). Trong xã hội Mỹ-điển hình của một xã hội tư
bản đề cao giá trị đồng tiền, Michael J. Sandel vẫn nhìn thấy những thứ mà
không thể và không nên dùng tiền để mua. Ông viết: “Có những điều tốt đẹp trong
cuộc sống sẽ bị xói mòn, bị hư hỏng nếu chúng bị coi là hàng hóa. Vì vậy, để
xác định xem thị trường có thể tồn tại ở đâu, cái gì nên tránh xa thị trường
thì chúng ta phải tìm ra cách thức đánh giá giá trị một số thứ, như: Sức khỏe,
giáo dục, cuộc sống gia đình, tự nhiên, nghệ thuật, trách nhiệm công dân...
Chúng đều là những vấn đề mang tính đạo đức và chính trị chứ không chỉ đơn
thuần là kinh tế”.
Michael
J.Sandel đã đề cập đến vấn đề đạo đức của đồng tiền, hay chính xác là đạo đức
khi sử dụng đồng tiền. Bởi theo ông: “Cuộc tranh luận này (cuộc tranh luận về
khía cạnh đạo đức của đồng tiền-PV) không hề tồn tại trong kỷ nguyên tôn vinh
thị trường. Hậu quả là khi không nhận biết được vấn đề, không bao giờ nghĩ đến
chuyện tranh luận về chúng, từ chỗ có một nền kinh tế thị trường, chúng ta đã
trượt sang trạng thái trở thành một xã hội thị trường”. Cũng theo tác giả người
Mỹ: “Nền kinh tế thị trường là một công cụ đáng giá và hiệu quả, giúp
chúng ta tổ chức được hoạt động sản xuất. Còn xã hội thị trường là một phương
thức sống mà trong đó, các giá trị thị trường thâm nhập vào mọi ngóc ngách của
cuộc sống con người. Chúng ta muốn một nền kinh tế thị trường hay một xã hội
thị trường? Làm sao chúng ta xác định được hàng hóa nào được phép mua bán, còn
hàng hóa nào phải chịu sự chi phối của các giá trị phi thị trường? Chỗ nào
không nên có vai trò của đồng tiền?”.
Như
thế, đồng tiền chi phối xã hội, ảnh hưởng tới cách nghĩ, cách ứng xử và đạo đức
xã hội là câu chuyện mà con người ở mọi quốc gia đều có thể cảm nhận được. Thế
nhưng, tùy vào văn hóa xã hội và thể chế chính trị mà cách giải quyết vấn đề
này rất khác nhau.
Chúng
ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đang áp dụng ngày
càng đầy đủ hơn các quy luật, nguyên tắc của kinh tế thị trường. Nếu không có
“định hướng XHCN”, thì các đặc điểm kinh tế thị trường của chúng ta cũng giống
như nền kinh tế thị trường của các quốc gia trên thế giới. Phần “định hướng
XHCN” vì thế rất quan trọng để hạn chế mặt trái của đồng tiền. Nhưng định hướng
XHCN của nền kinh tế thị trường là thứ mà chúng ta phải tốn nhiều công sức để
thiết kế, định hình, nó bao gồm cả yếu tố thể chế và đạo đức.
Trong
khi đó, mặt trái của kinh tế thị trường vẫn đang tác động hằng ngày, hằng giờ
tới mỗi con người. Nền kinh tế càng phát triển thì lưu lượng tiền tệ trong nền
kinh tế càng lớn và ý muốn dùng tiền để mua mọi thứ nếu không được phân tích,
chỉ ra mặt trái, nếu không được kiểm soát thì có thể dần trở thành điều hiển
nhiên của cuộc sống. Hệ lụy của nó là xã hội sẽ dần biến chất, đến mức những
giá trị chuẩn mực đạo đức, nhân văn mang tính truyền thống của dân tộc, mang
bản chất của xã hội XHCN sẽ bị thách thức. Ví như gần đây, chúng ta thấy có
những ý kiến đòi phải công nhận mại dâm như một nghề chính thức trong xã hội,
phải đóng thuế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần phải xác định rõ xem
nhân phẩm của người phụ nữ có phải là thứ có thể mang ra mua bán, trao đổi hay
không? Truyền thống văn hóa của chúng ta, bản chất xã hội XHCN của chúng ta có
chấp nhận được việc mua bán đó không?...
Nếu ta
để đồng tiền quyết định mọi vấn đề thì sẽ dẫn tới hệ lụy là người làm chính
sách, nhà quản lý có thể hy sinh mọi thứ vì phát triển kinh tế. Vì phát triển
kinh tế, chúng ta có thể hy sinh môi trường sống, vì kinh tế ta có thể hủy hoại
cả nền văn hóa truyền thống của dân tộc, vì đồng tiền ta có thể hy sinh sức
khỏe, vì đồng tiền ta có thể hy sinh các mối quan hệ trong gia đình... Để rồi
cuối cùng, chúng ta sẽ không biết rõ mình là ai! Phát triển kinh tế, làm giàu kiểu
như vậy thì thể hiện sự tàn phá hạnh phúc hơn là kiến thiết hạnh phúc.
Ngăn chặn lạm quyền và
làm giàu bất chính
Bản
thân đồng tiền không có lỗi, mà vấn đề là người sử dụng, mục đích sử dụng tiền.
Dân gian có câu: “Tiền dùng đúng, tiền hiền như Phật. Bạc xài lầm, bạc ác hơn
ma”. Nhu cầu kiếm tiền và làm giàu đúng pháp luật là nhu cầu chính đáng của
công dân và được Đảng, Nhà nước khuyến khích. Tiếp nối tinh thần của các đại
hội trước, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu mục tiêu phấn đấu xây dựng nước
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cho nên việc
người dân giàu có là mục tiêu của Đảng ta, xã hội ta. Dân giàu bằng công sức,
lao động chính đáng, đúng pháp luật là cái phúc; nhưng cán bộ giàu có thể là
cái họa. Bởi vì, cán bộ có thể sử dụng vị trí công việc của mình, lạm dụng
quyền lực của Đảng, Nhà nước trao cho mình để kiếm tiền, làm giàu bất chính cho
bản thân.
Khi nền
kinh tế phát triển nhanh, cùng với đó là các quy định của pháp luật chưa được
hoàn thiện, sự phất lên quá nhanh, quá dễ dàng của một số quan chức tham nhũng
và các doanh nghiệp thân tín đã thách thức các giá trị truyền thống, trong đó
có các giá trị đạo đức và cả niềm tin. Không ít cán bộ, công chức coi đồng tiền
là thước đo số 1 cho thành công, đẳng cấp, uy tín và hạnh phúc, là thứ bảo đảm
cuộc sống sung túc dài lâu cho họ và con cháu họ.
Cách
nghĩ này khiến cho khi có cơ hội, họ cố vơ vét thật nhiều tiền cho đầy túi
tham. Để nói về loại tham quan này, nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã
nhận xét: “Ăn của dân không từ cái gì”. Chẳng thế mà khi nói đến nhiều vị cán
bộ to, người ta không nhắc tới tài năng, trí tuệ, những đóng góp cho công việc,
cho đất nước, cho nhân dân, mà chỉ thấy khen giàu: Ông/bà ấy có biệt phủ lớn
lắm, có nhiều nhà lắm, đi nước ngoài tiêu tiền khủng khiếp...
Khi dân
“khen” cán bộ giàu là phải hết sức suy nghĩ... vì nguồn tiền làm giàu đó từ
đâu? Những “quan cách mạng” đó là một mối họa lớn cho sự tồn vong của Đảng, Nhà
nước XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” năm
1947 đã yêu cầu phải “lôi cổ những ông quan cách mạng này xuống”. Nếu không lôi
họ xuống, để họ tiếp tục đục khoét, làm giàu bất chính một cách dễ dàng thì
nhiều người trong xã hội sẽ học theo, cố chen chân để làm “quan cách mạng”, học
thói làm giàu bất chính.
Theo
nguyên tắc của kinh tế thị trường, người ta sẽ coi vị trí “quan cách mạng” như
một khoản đầu tư sinh lợi lớn. Nạn mua quan, bán chức vì thế sẽ ngày càng trầm
trọng. Sau khi mua được chức rồi, những vị “quan cách mạng”-sẽ phải thu hồi lại
vốn bằng cách bòn rút công quỹ, bòn rút cấp dưới, bòn rút nhân dân. Quyền lực
của cơ quan công quyền nếu rơi vào tay của quan tham sẽ trở thành công cụ để
hắn ta kiếm lợi cho bản thân.
Những
năm gần đây, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) được đẩy lên cao
trào, hàng loạt quan tham dù ở cấp nào cũng bị sa lưới, những khối tài sản tham
nhũng khổng lồ được thu hồi. Kể cả những “quan cách mạng” đã nghỉ hưu vẫn bị
lôi ra kỷ luật Đảng, xét xử, bỏ tù nếu bị phát hiện hành vi tham nhũng, vi phạm
pháp luật. Hành động quyết liệt ấy đã cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và toàn xã
hội thấy trong PCTN không có vùng cấm, không có hạ cánh an toàn. Vì
thế, những người đang có chức vụ phải thận trọng, giữ mình, còn kẻ có dã tâm
muốn mua quan, bán chức sẽ phải chùn bước.
Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng đặt mục tiêu đến năm 2045 nước ta sẽ thành nước
phát triển, thu nhập cao. Khoảng cách 24 năm để từ một nước đang phát triển,
thu nhập trung bình thấp thành nước phát triển, thu nhập cao, đòi hỏi sự nỗ lực
tăng tốc phát triển kinh tế. Cùng với những đột phá về cơ chế, chính sách để
phục vụ yêu cầu tăng tốc phát triển kinh tế, cũng cần hết sức quan tâm bồi đắp,
gìn giữ đạo đức, nhân cách, văn hóa con người. Bởi khi tăng tốc phát triển kinh
tế thì tiền của, vật chất sẽ sản sinh nhanh hơn, nhiều hơn, sự chi phối của
đồng tiền đối với các mối quan hệ xã hội sẽ lớn hơn. Để có CNXH, chúng ta không
chỉ cần xây dựng cơ sở vật chất, không chỉ là quan hệ sản xuất, mà còn cần con
người. Do vậy, làm thế nào để ngăn chặn tiền của, vật chất, mặt trái của
kinh tế thị trường làm thoái hóa con người; làm thế nào để xây dựng được con
người không chỉ giàu có về tiền bạc, vật chất mà giàu có cả về trí lực, tâm lực
và thể lực để tạo nên xã hội văn minh là vấn đề có tính chiến lược cần có giải
pháp căn cơ.
(còn nữa)
HỒ
QUANG PHƯƠNG (Báo Quân đội Nhân dân)
Căn bệnh suy thoái là căn bệnh phải được phát hiện và điều trị từ sớm; nếu phát hiện muộn sẽ không điều trị được
Trả lờiXóa