Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi nhiệm vụ xây dựng chính quyền địa phương (CQĐP) là một trọng tâm trong chiến lược củng cố chính quyền dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh kéo dài nên trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính quyền địa phương vẫn tồn tại như là “cánh tay nối dài” của chính quyền trung ương, mô hình tổ chức và hoạt động của CQĐP chủ yếu vẫn mang tính trực thuộc.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam mở ra tiến trình đổi mới đất nước. Tại Đại hội này, Đảng khẳng định: “Phải kiên quyết thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ”(1). Theo đó, Đảng ta coi phân cấp quản lý là giải pháp chủ yếu để đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐP. Chủ trương phân cấp đối với CQĐP tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng VII (năm 1991). Đến Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6-1997), Đảng chỉ đạo: “Nghiên cứu, phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động của Hội đồng nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở đô thị với hoạt động của Hội đồng nhân dân và nhiệm vụ quản lý hành chính ở nông thôn, có thể tiến hành thí điểm ở một vài địa phương để thấy hết các vấn đề cần giải quyết”(2). Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4-2006) nêu rõ: “Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền địa phương ở nông thôn, đô thị, hải đảo”; “phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù hợp”(3). Chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân (HĐND) quận, huyện, phường được Đảng thông qua tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa X bằng Nghị quyết số 17/NQ-TW là cơ sở chính trị quan trọng để Quốc hội thí điểm không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường ở 10 tỉnh, thành phố trên cả nước trong giai đoạn 2009 - 2016. Kết quả thí điểm không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội trong giai đoạn 2009 - 2016 là căn cứ thực tiễn quan trọng để Quốc hội tiếp tục thí điểm mô hình chính quyền đô thị ở Hà Nội, Đà Nẵng và chính thức tổ chức mô hình chính quyền đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và ngay sau đó là Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời đã tạo lập những nền tảng pháp lý mới đối với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương ở Việt Nam. Theo đó, chính quyền địa phương là một trong những chế định pháp lý quan trọng được trình bày ở chương IX với 7 điều (từ Điều 110 đến Điều 116) trong Hiến pháp. Lần đầu tiên, khái niệm “cấp chính quyền địa phương” được Hiến định tại khoản 2 Điều 111: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”... Về phương diện kỹ thuật tổ chức, Điều 111 của Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (...) phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”. Tiếp nối tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”(Khoản 1, Điều 4). Khái niệm “cấp chính quyền địa phương” và “đơn vị hành chính tương đương” trong Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã mở ra khả năng có thể tổ chức mô hình chính quyền khác nhau giữa địa bàn đô thị và nông thôn và đang dần được hiện thực hóa trong thực tiễn.
LHQ-ST
bài rất thực tế
Trả lờiXóa