Ngay từ những ngày đầu của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vấn đề quyền con người luôn luôn được quan tâm và là một trong những mục tiêu cao cả nhất trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng tới nay. Ngày 12/7/1992, Ban Bí thư (khóa VII) ban hành Chỉ thị 12/CT-TW về "Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta". Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư đã đề cập đến những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng ta về vấn đề quan trọng này. Trên cơ sở kế thừa thành tựu bảo đảm quyền con người trong các giai đoạn cách mạng, quyền con người, quyền công dân đã ngày càng được đảng chú trọng và nâng cao, thể hiện trong Hiến pháp, trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng và các chỉ thị, nghị quyết… Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước kém phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình. Thành tựu phát triển của đất nước đã tạo điều kiện vật chất, tinh thần và nguồn lực để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục bảo đảm và thúc đẩy ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của các tầng lớp nhân dân, người dân được thụ hưởng tất cả mọi quyền của công dân theo đúng các công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc. Những thành tựu đó đến từ sự hình thành các quan điểm của Đảng ta về quyền con người, cả từ yếu tố thời đại cũng như truyền thống dân tộc. Trong đó, Đảng ta khẳng định: “Trong xã hội có giai cấp, khái niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc”.
Quan
điểm trên là một trong những cơ sở hình thành quan điểm của Đảng ta về quyền
con người, quyền công dân cùng với một số
quan điểm sau:
Thứ nhất, Quyền con người là khát vọng chung
của nhân loại
Khát
vọng về quyền con người gắn liền với sự phát triển của nền văn minh nhân loại,
được thể hiện ở mọi quốc gia, dân tộc, ở mọi thời kỳ lịch sử. Ngày nay, quyền
con người trở thành chủ đề lớn trong cac quan hệ quốc tế. Quyền con người
không chi được đặt ra trong quan hệ giữa các quốc gia, mà còn được đặt ra trong
quan hệ giữa một quốc gia với các tổ chức khu vực và quốc tế. Quyền con người
là chủ đề của các đảng chính trị trong tranh giành quyền lực, thực thi và giữ
gìn quyền lực; đặc biệt là tranh chấp gay gắt trong các quá trình bầu cử.
Quyền con người còn được thảo luận trong diễn đàn của mỗi tôn giáo và liên tôn
giáo... Không có thực thể xã hội nào đứng ngoài các hoạt động về nhân quyền.
Thứ hai, Quyền con
người trong truyền thống dân tộc Việt Nam
Cũng như các dân tộc trên thế giới, các giá trị nhân đạo,
khoan dung... luôn hiện hữu trong đời sống xã hội và được thể hiện đậm nét
trong lịch sử tư tưởng và đời sống của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, điều kiện sống
khắc nghiệt, do thường xuyên phải chống ngoại xâm và thiên tai, đã làm cho nhiều
giá trị vốn có trở thành nổi trội. Đó là truyền thống coi trọng con người,
thương yêu con người, đề cao tính vị tha, trách nhiệm với cộng đồng... luôn được
nâng niu, bồi đắp và bảo vệ ở mọi thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những
tư tưởng nhân đạo, nhân văn của dân tộc, thể hiện qua tục ngữ, ca dao và qua
hành động cụ thể của những vị vua, quan là biểu hiện sinh động, đậm nét những
giá trị dân tộc về bảo vệ con người. Đó là những đóng góp quý báu của dân tộc
Việt Nam vào giá trị nhân quyền thiêng liêng của nhân loại. Đây cũng là tiền đề
quan trọng để Việt Nam có thể tiếp nhận, chia sẻ, bảo vệ và phát triển các nội
dung quyền con người hiện đại trong bối cảnh mới.
Thứ ba, Quyền con người,
quyền công dân trong Học thuyết Mác - Lênin
Cùng với việc kế thừa các tư tưởng tiến bộ, Học thuyết Mác
đã góp phần khắc phục được khuynh hướng xem xét con người một cách trừu tượng.
C.Mác chỉ rõ: “Bản chất cùa con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người là tổng
hoà của những mối quan hệ xã hội”. Đây là cơ sở quan trọng để xem xét, đánh giá
vấn đề quyền con người. Học thuyết Mác đề cao con người và sự nghiệp giải
phóng con người, nhấn mạnh quyền và tự do của con người không tách rời quyền và
tự do của mỗi dân tộc. Chính quyền tự do của mỗi dân tộc, trong đó có quyền tự
quyết dân tộc, là một đảm bảo vững chắc để có thể hiện thực hóa đầy đủ các
quyền con người.C.Mác chỉ rõ, một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì chính
dân tộc đó cũng không thể có tự do. Việc tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc
khác là một yêu cầu quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ hữu nghị thực
chất giữa các dân tộc, do đó góp phần vào việc bảo vệ hòa bình thế giới và quyền
con người.
Thứ tư, Quyền con người
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia - một quyền tập thể -
theo Hồ Chí Minh gắn liền với quyền con người và là điều kiện tiên quyết, cơ bản
để hiện thực hóa các quyền con người ở Việt Nam. Cùng với đó, những luận điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền dân chủ có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Người đề cập
đến tính công khai, minh bạch, thực hành dân chủ, trách nhiệm của các cơ quan
công quyền, không chỉ trong Hiến pháp, pháp luật, mà cả trong thực tiễn chỉ đạo
hoạt động cùa Chính phủ thời kỳ kháng chiến. Người coi nhân dân là chủ, Chính
phủ là đầy tớ của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn quan tâm đến quan hệ hòa
bình, hữu nghị với các dân tộc, tăng cường giao lưu học hòi kinh nghiệm của các
nước trong việc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ quyền con người. Điều
này được thể hiện sống động qua di sản tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Người;
cả trong tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng hiến pháp, pháp luật cũng như quản
lý xã hội, trong hoàn cảnh chiến tranh cũng như trong hòa bình…Những tư tưởng
và hoạt động của Hồ Chí Minh về quyền con người thế hiện tầm nhìn chiến lược,
phù hợp với xu thế thời đại, là đóng góp to lớn vào giá trị chung của nhân loại
về quyền con người. Những tư tưởng đó là định hướng chính trị cơ bản cho toàn bộ
hoạt động của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người ở mọi giai đoạn
phát triển của đất nước.
Thứ năm, Quyền con
người là mục tiêu chính của Liên hợp quốc, là trách nhiệm của các quốc gia
Quyền con người ngày càng chiếm vị trí chủ đạo trong dời sống
quốc tế. được xem là trụ cột chủ yếu của Liên hợp quốc; bao gồm hòa bình - an
ninh, quyền con người và phát triển. Tuy nhiên, xét đến cùng, giữ gìn hòa bình
- an ninh, thúc đẩy phát triển trên mọi lĩnh vực cũng đều nhằm bảo đảm tối đa
các quyền và tự do cơ bản của con người. Đến nay, không một quốc gia và vùng
lãnh thổ nào không là thành viên của Luật nhân quyền quốc tế. Luật nhân quyền
quốc tế còn được các tổ chức khu vực và nhiều công ty xuyên quốc gia tôn trọng,
chấp thuận. Theo đó, với tư cách thành viên điều ước quốc tế về quyền con người,
mọi quốc gia và thực thể xã hội đều có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thực
hiện quyền con người. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, áp lực thực hiện trách nhiệm
quốc gia ngày càng lớn. Quyền con người đem lại những lợi ích to lớn, song cũng
luôn có khuynh hướng gây ra xung đột, kế cả giữa các quốc gia. Vì thế, Liên hợp
quốc đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quyền con người, đồng thời có
nhiệm vụ thúc đẩy sự hiểu biết, tin cậy và phát triển tình hữu nghị giữa các
quốc gia, dân tộc...
Thứ sáu, Quyền con người trong chính sách đối ngoại
của các nước phương Tây
Quyền con người vốn là vấn đề thuộc lĩnh vực đạo đức, song
trong bối cảnh tồn tại giai cấp đối kháng, quyền con người luôn bị một số
quốc gia phương Tây chính trị hóa. Những năm gần đây, vấn đề nhân quyền cũng
ngày càng được đề cập nhiều trong các quan hệ chính trị, kinh tế, cả song
phương và đa phương. Nhân quyền được xác định là một ưu tiên trong chính sách đối
ngoại của phương Tây. Trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng vào đời
sống quốc tế hiện nay, trong đó có hành động áp đặt dân chủ, nhân quyền của
Phương Tây cũng đặt ra nhu cầu nhận thức đầy đủ mọi vấn đề, trong đó có vấn đề
quyền con người. Nhận thức đúng là một đảm bảo quan trọng để vừa tiếp thu
những giả trị chung của nhân loại, vừa giữ vững được con đường, mục tiêu mà Đảng
và nhân dân ta đã chọn, nhằm đem lại quyền con người tối đa cho mọi người dân
Việt Nam.
Thứ bẩy, Thực tiễn đối
mởi, hội nhập, phát triển đất nước và yêu cầu mới về báo đảm quyền con
người, quyền công dân
Sự nghiệp đổi mới đã tạo ra bước phát triển quan trọng cho
đất nước. Thành quả đạt được có vai trò, đóng góp to lớn của việc đổi mới nhận
thức và thực tiễn bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Từ việc đáp ứng các quyền
con người trên lĩnh vực kinh tế, quyền con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự,
chính trị, xã hội và văn hóa cũng cần được đáp ứng. Tiến trình đổi mới đất nước
đặt ra những yêu cầu mới về quyền con người. Bảo đảm tốt các quyền con người sẽ
tạo thêm động lực mới cho mọi quúa trình phát triển và sự nghiệp xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thành tựu của thời kỳ đổi mới
không tách rời việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Cùng với nhu cầu nội
tại của sự phát triển đất nước, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng đặt
ra yêu cầu mới về quyền con người, cả trong quan hệ song phương cũng như đa
phương, cả trên phạm vi quốc tế cũng như trong phạm vi khu vực. Có nhận thức và
cách tiếp cận đúng đắn sẽ giúp các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện tốt
nghĩa vụ quốc gia đối với các cam kết quốc tế, đồng thời đấu tranh bảo vệ tốt
nhất lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh quyền con người không chỉ là vấn đề
pháp lý, mà còn là vấn đề đạo đức và chính trị thì việc bảo đảm tốt quyền con
người sẽ góp phần nâng cao vị thế quốc gia trong sinh hoạt quốc tế...
Nhìn
một cách toàn diện có thể thấy gần đây, các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên
tạc của các thế lực thù địch đối với Việt Nam ngày càng được tổ chức có hệ
thống, mang tính tổng hợp, diễn ra trên biên độ rộng, không thuần túy là vấn đề
lý thuyết, luận giải lô-gích - lịch sử,… mà còn là sự kiện xã hội - con người
mới nảy sinh, những vấn đề của cuộc sống. Trong đó, vấn đề về quyền con người ở
nước ta là một trong những nội dung chúng tăng cường nói xấu, xuyên tạc bằng
nhiều hình thức. Chúng nêu ra quan điểm quyền con người là tự nhiên nên phải
phi giai cấp, không được phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền nào. Có thể thấy quan điểm này phiến diện từ bản
chất, những động thái đó đều nhắm đến mục đích duy nhất là gieo rắc quan điểm
"phi giai cấp, phi ý thức hệ" và tác động, lung lạc những người thiếu
bản lĩnh, hời hợt về tri thức, tiếp cận và đánh giá vấn đề, sự kiện bằng nhận
thức cảm tính, bất mãn vì cho rằng không được xã hội đãi ngộ,… dẫn dắt họ đi từ
hoang mang đến hồ nghi, dần dà suy giảm niềm tin vào tư tưởng - lý luận chính
thống của xã hội, suy giảm niềm tin vào chế độ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét