Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930) và trải qua các
thời kỳ lãnh đạo cách mạng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng luôn bị
các thế lực thù địch về chính trị và ý thức hệ chống phá, xuyên tạc, phủ định.
Những năm cuối thập niên 1930, trước sự chống phá của bọn Trotsky, Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”. Năm 1939, trong ý kiến gửi
các đồng chí ở trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: “Đối với bọn
Trotsky, không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để
lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về
chính trị”.
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu,
trước âm mưu phủ định CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đòi chấm
dứt vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện đa nguyên
chính trị và đa đảng đối lập của các thế lực thù địch, phản động, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã kiên quyết, dứt khoát bác bỏ những quan điểm sai trái đó, kiên định
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam; hoạch định và không ngừng bổ sung, phát triển đường lối
đổi mới và thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH”. Thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ, đối với Việt Nam
“không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc
cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa
chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng (1930), Luận cương chính trị tháng 10-1930, Chính cương Đảng Lao động
Việt Nam và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ là ngọn cờ soi sáng bước đường
tranh đấu của dân tộc Việt Nam giành độc lập, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước và bước đầu xây dựng CNXH; thì Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991 cũng như Cương lĩnh bổ sung, phát triển
2011) và đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã đưa Việt Nam thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình và đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam là độc lập dân tộc và CNXH, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu trong
bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam": “Độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là
điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm
thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có CNXH và chủ
nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới
có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi
người, cho các dân tộc”.
Điều đó là cơ sở để khẳng định, không có lý do gì để Đảng và dân
tộc Việt Nam rẽ sang con đường tư bản chủ nghĩa hay một con đường phát triển
nào khác, trao quyền quản lý đất nước cho những thế lực cơ hội, phản động.
Khẳng định nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam
Thực tiễn lịch sử 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam cho thấy,
ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân tin tưởng giao phó
trọng trách trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó không phải
là do mong muốn chủ quan của Đảng, mà chính là sự giao phó của lịch sử, của
cách mạng Việt Nam thông qua quá trình sàng lọc, lựa chọn một cách đúng đắn.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong thế kỷ 20, Đảng đã
lãnh đạo toàn thể dân tộc giành được những thắng lợi vĩ đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông
Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, độc lập dân tộc gắn liền
CNXH.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải
phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước đi lên CNXH, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất
nước quá độ lên CNXH: “Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ 20, nước ta
từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do,
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng
rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân
dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hoá”. Với những thành quả đạt được: “Chúng ta tự hào
về dân tộc ta-một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng
ta-Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn
luyện-một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân”.
Đặc biệt, sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, quy mô nền
kinh tế tăng từ 26,88 tỷ USD năm 1986 lên 271,2 tỷ USD năm 2020; thu nhập bình
quân đầu người tăng từ 182USD năm 1990 lên 2.779USD năm 2020. Sau 25 năm
(1995-2020), Việt Nam đã làm được kỳ tích, đưa nền kinh tế tăng gấp 10 lần cả
về quy mô và thu nhập bình quân trên đầu người, tăng 21 hạng về quy mô nền kinh
tế và tăng 54 hạng về thu nhập đầu người trên bảng xếp hạng các quốc gia.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam 92 năm qua
đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước
Việt Nam. Đồng thời khẳng định một chân lý: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng
chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh
nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách,
đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác”.
Như vậy, luận điệu của các thế lực thù địch, phản động cho rằng,
đa đảng thì có dân chủ và một đảng thì mất dân chủ, thực ra là một trò “lập lờ
đánh lận con đen” nhằm cổ vũ cho việc thiết lập cơ chế đa nguyên, đa đảng tại
Việt Nam. Đề cập đến vấn đề này, trả lời câu hỏi của phóng viên báo Express Ấn
Độ về việc liệu đã đến lúc chín muồi để Việt Nam có một hệ thống đa đảng, hoặc
có các đảng khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam để có thể tính tới các quan điểm
của nhiều nhóm sắc tộc, nhiều dân tộc khác nhau, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
khẳng định: Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ
hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan trọng
là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó là
tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị trường thì
phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa
đảng, ít nhất cho đến bây giờ.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét