Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) Vương Duy
Biên, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chia sẻ rằng, từ nhỏ,
ông đã có tình cảm đặc biệt với Bác Hồ kính yêu. Mới đây, Tượng đài Chủ tịch Hồ
Chí Minh ở Phú Quốc (Kiên Giang) do ông là tác giả được khánh thành. Nhân dịp
này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần có cuộc trò chuyện với ông về
tác phẩm ý nghĩa này.
Luôn
dành tình cảm đặc biệt với Bác
Phóng
viên (PV): Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Phú Quốc do ông là tác
giả vừa khánh thành dịp kỷ niệm 134 năm Ngày sinh của Bác, ý tưởng của ông khi
thiết kế tác phẩm là gì?
NSND
Vương Duy Biên: Tượng
đài Chủ
tịch Hồ Chí Minh ở Phú Quốc được tôi sáng tác từ năm 2014. Khi
đó, tỉnh Kiên Giang nghiên cứu quy hoạch phát triển địa phương đã mong muốn có
điểm nhấn, dấu ấn ở Phú Quốc mà cụ thể là Tượng đài Bác Hồ. Đó là một suy nghĩ
sâu xa về chủ quyền biển, đảo. Được sự đồng ý của Ban Bí thư cho chủ trương
dựng tượng Bác Hồ ở Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang mời
một số nhà điêu khắc, phát động cuộc thi thiết kế tượng Bác và tôi cũng được
mời tham gia.
Nhưng phải đến năm 2021 mới diễn ra phiên họp do Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng trực tiếp chủ trì duyệt mẫu phác thảo. Và mẫu tượng Bác Hồ với
ý tưởng “miền Nam luôn trong trái tim tôi” của tôi được đánh giá là có nhiều
điều mới so với các mẫu tượng Bác Hồ trước đây. Khi nghĩ ý tưởng cho bức tượng,
tôi nhớ đến câu nói của Bác “miền Nam luôn trong trái tim tôi”. Tôi nghĩ câu
nói của Bác có thời điểm lịch sử, nhiều tác phẩm chỉ dừng lại mô tả thời điểm
nhất định nhưng ở bức tượng Bác đặt tay lên ngực trái hàm chứa những thông điệp
lâu dài, rộng hơn cả ý nghĩa miền Nam trong trái tim Bác, đó còn là Tổ quốc,
dân tộc luôn trong trái tim Bác.
Công trình tượng đài Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Quảng trường Hồ Chí Minh ở TP Phú Quốc được khởi công năm 2022, hướng
tới kỷ niệm 135 năm Ngày sinh của Người nhưng với tình cảm dành cho Bác và tâm
thế làm việc hết mình của mọi người nên công trình đã khánh thành sau hai năm.
PV: Tượng Bác Hồ ở Phú Quốc có thể nói là bức tượng danh nhân có kích
thước lớn nhất ở nước ta hiện nay. Quá trình thi công, ông và đội ngũ thợ có
gặp phải những áp lực, thách thức?
NSND
Vương Duy Biên: Mẫu
tượng phác thảo đầu tiên của tôi cao 60cm, sau khi được chọn thì tiến hành làm
tượng mẫu cao 1,2m cùng tổng thể không gian Quảng trường Hồ Chí Minh trên sa
bàn. Tượng chính thức có chiều cao 18m và phần đế cao 2m, được đúc thủ công
theo lối truyền thống bằng đồng.
Trước đó, tôi từng làm bức tượng Quốc
công tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn cao khoảng 10m, tượng Tổng Bí
thư Trường Chinh cao khoảng 7,2m và nhiều tác phẩm điêu khắc khác, nhưng chưa
tác phẩm nào có kích thước lớn như tượng Bác Hồ lần này. Bức tượng lớn, lại làm
bằng phương pháp thủ công nên dù tôi đã lựa chọn hợp tác với đội ngũ thợ quen,
lành nghề ở Nam Định nhưng quá trình thực hiện vẫn có những vấn đề phát sinh,
nhất là sai số qua mỗi công đoạn.
Thử tưởng tượng từ khuôn đất sét sang
thạch cao sai số một chút, từ thạch cao sang đồng sai số một chút, rồi từ tượng
đồng lại phải chỉnh về như mẫu đất sét. Rồi tượng lớn nên phải chia thành nhiều
phần, ghép lại với nhau, khuôn đúc co ngót phụ thuộc nhiều yếu tố nên có khi
ghép hai phần lại chênh nhau tới 6-7cm. Nếu như đúc bằng phương pháp công
nghiệp có thể điều chỉnh, kiểm soát được độ chính xác dễ hơn thì tính chất đúc
thủ công phải sửa nguội khó hơn và mất nhiều công. Có khi tôi ở trên giàn giáo
mấy tiếng liền chỉ để chỉnh một chi tiết nhỏ sao cho vừa ý nhất. Nhưng cũng từ
việc vượt qua những thách thức, khó khăn khi làm công trình này, chúng tôi có
thêm nhiều kinh nghiệm, bài học thiết thực, bổ ích. Và hơn hết là ai cũng cảm
thấy vinh dự khi được tham gia vào công trình ý nghĩa, đặc biệt này.
PV: Đây không phải tác phẩm đầu tiên của ông về Bác Hồ?
NSND
Vương Duy Biên: Đúng
là như thế! Năm 18 tuổi, khi đang học tại Trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam, trong chương trình học có bài sáng tác tự do. Tôi nhớ có lần đọc được
bài báo viết rằng Bác Hồ ở Việt Bắc có thói quen đọc báo vào buổi sáng. Vì thế,
tôi có ngay ý tưởng làm tượng Bác đang đọc báo. Tác phẩm sau đó được mang dự
Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1978 và được Hội đồng nghệ thuật quốc gia chọn
mua để lưu giữ, hiện bức tượng vẫn đang ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Nhưng nếu nói đúng ra thì đó cũng không
hẳn là lần đầu tôi làm tượng về Bác Hồ. Còn nhớ năm Bác mất, tôi lên 10
tuổi. Tôi dùng những mảnh dao lam cạo râu của bố rồi ra bách hóa mua phấn về
gọt, khắc thành tượng Bác nằm, gập miếng mica thành tủ kính, rồi khắc thêm 4
chú cảnh vệ đứng 4 góc, giống như hình ảnh tôi được thấy trong lễ tang Bác.
Xong, tôi gọi đám bạn trẻ con trong xóm đến viếng Bác. Người lớn xem thì bảo
rằng viên phấn bé xíu mà tôi khắc nhìn rất đẹp. Với Bác, tôi luôn có tình cảm
đặc biệt suốt bao năm qua.
|
Tượng
đài Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Phú Quốc (Kiên Giang). Ảnh: DUY PHƯƠNG |
Quan
trọng là đem lại cảm xúc cho người xem
PV: Ông được biết đến là tác giả của nhiều tác phẩm điêu khắc các danh
nhân dân tộc. Đây là chủ đề không dễ, thưa ông?
NSND
Vương Duy Biên: Tôi
nghĩ khi sáng tạo những tác phẩm mỹ thuật về các danh nhân, nhất là những người
vĩ đại mà hình ảnh đã trở nên quen thuộc với đông đảo người dân thì
tác giả phải có sự hiểu biết sâu sắc về nhân vật. Có như vậy mới thể hiện được
khí chất, tinh thần của danh nhân qua bức tượng.
Khi làm tượng Hưng Đạo Đại vương Trần
Quốc Tuấn để dự thi trên phạm vi toàn quốc, tôi mới 30 tuổi, còn rất
trẻ, lại tham gia cùng rất nhiều họa sĩ gạo cội, lão làng nên nhiều người
không biết tôi là ai. Thêm nữa, trong khi đại đa số tác giả thể hiện hình tượng
Trần Hưng Đạo tay nắm chuôi kiếm hoặc đang rút kiếm ra khỏi vỏ thì tôi
làm tượng Trần Hưng Đạo tay trái tì lên đốc kiếm, tay phải cầm bản
"Hịch tướng sĩ". Tôi thuyết trình về ý tưởng bức tượng rằng Trần Hưng
Đạo là vị tướng văn võ song toàn. Hình ảnh tay tì lên đốc kiếm thể hiện ông là
vị tướng ở tầm chiến lược, không cần rút kiếm ra, tay phải cầm cuốn "Hịch
tướng sĩ" thể hiện rằng "văn" mới là cái đầu tiên ông thu phục
nhân tâm để giành thắng lợi. Qua đó cũng thấy rằng, dân tộc ta không phải là
dân tộc hiếu chiến mà luôn muốn “lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Tác phẩm của tôi đã thuyết phục được hội
đồng và được trao giải nhất. Nhiều người nghĩ tác giả đoạt giải nhất phải là
một họa sĩ đứng tuổi nên khi nhìn tôi mặt thư sinh, trẻ măng, nhiều người rất
bất ngờ. Bức tượng Trần Hưng Đạo sau đó được dựng ở TP Nam Định, hiện còn được
nhân bản ở Khu di tích Bạch Đằng Giang (Hải Phòng) và Trường Sa (Khánh Hòa).
Tất nhiên, trong điêu khắc, nhất là chân
dung, từ ý tưởng đến thể hiện thành tác phẩm là cả quá trình. Có những điều về
kỹ thuật thầy cô trong trường có thể dạy nhưng cũng có những điều thuộc về
người sáng tạo mà thầy cô không dạy được. Thần thái nhân vật, cái đem lại cảm
xúc cho người xem thì chỉ tác giả trực tiếp làm mới thể hiện được.
PV: Theo ông, việc đặt tượng Bác Hồ ở Phú Quốc hay tượng Trần Hưng Đạo
ở Trường Sa có ý nghĩa gì?
NSND
Vương Duy Biên: Còn
nhớ tại buổi duyệt tượng Bác Hồ đặt ở Phú Quốc, sau khi được nghe Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng phát biểu, chúng tôi hiểu rằng, ngoài ý nghĩa thành kính tôn
vinh, biết ơn của muôn triệu người dân với Bác, tượng đài Bác Hồ còn là dấu mốc
chủ quyền quốc gia.
Việc đưa các công trình văn hóa như
tượng đài danh nhân, anh hùng dân tộc, lãnh tụ hay việc xây dựng đình, chùa nơi
hải đảo, biên giới Tổ quốc càng có ý nghĩa quan trọng trong khẳng định và bảo
vệ chủ quyền quốc gia. Bởi đó còn là những dấu ấn văn hóa, cái chúng ta tìm về
lịch sử từ những tầng văn hóa vật thể, phi vật thể... để khẳng định chủ quyền
quốc gia, dân tộc.
Khi tượng đài và Quảng trường Hồ Chí
Minh ở Phú Quốc vừa khánh thành vài ngày, nơi đây đã trở thành một điểm đến
trong hành trình khám phá hòn đảo xinh đẹp mà các đơn vị du lịch đưa vào lịch
trình cho du khách. Trước mắt, rõ ràng Phú Quốc có thêm một điểm đến, một thiết
chế văn hóa mới, ý nghĩa với người dân và du khách. Hơn nữa, khi truyền thông
được tăng cường cùng sự trải nghiệm, tìm hiểu của mỗi người cũng góp phần củng
cố niềm tự hào, ý thức về chủ quyền Tổ quốc của mỗi người dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét