Thứ Tư, 5 tháng 6, 2024

 

Phương hướng, giải pháp thúc đẩy thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

(LLCT) - Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do, trong đó có hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là CPTPP và EVFTA. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đem lại lợi ích về phát triển kinh tế - xã hội cũng như cơ chế bảo đảm quyền con người. Bài viết phân tích những lợi ích của hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với phát triển thương mại, thúc đẩy nhân quyền; vấn đề nội luật hóa các nội dung này trong pháp luật Việt Nam và đưa ra phương hướng, giải pháp thúc đẩy thực hiện các hiệp định này ở Việt Nam.


1. Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với phát triển thương mại và thúc đẩy nhân quyền tại Việt Nam

Một là, các hiệp định thương mại thế hệ mới khẳng định vị thế địa - chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới

Tính đến tháng 01-2022, Việt Nam đã ký kết 15 hiệp định thương mại tự do (free trade agreement - FTA) và đang đàm phán 02 FTA; đặc biệt đã ký kết 02 FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Việc tham gia những FTA này đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, cũng như mở rộng cửa để Việt Nam tham gia sâu hơn vào sân chơi toàn cầu.

Nếu ở các FTA truyền thống, phạm vi ký kết và mức độ ảnh hưởng chủ yếu trong lĩnh vực thương mại, thì các FTA thế hệ mới tác động toàn diện đến kinh tế, xã hội, chính trị, ngoại giao. CPTPP và EVFTA là những FTA có nhiều tiêu chuẩn rất cao, nhạy cảm đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, chưa thể thực hiện ngay những tiêu chuẩn nhân quyền như các nước phát triển và đang kiên định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Hội nhập quốc tế là động lực quan trọng để Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và nâng cao năng lực sử dụng “nguồn lực mềm” trong sân chơi toàn cầu. Giới quan sát quốc tế cho rằng, EVFTA là thỏa thuận chất lượng, toàn diện và hiện đại nhất mà châu Âu từng ký với một nước đang phát triển. Trong bối cảnh tình hình chính trị - an ninh thế giới đang diễn biến phức tạp và thay đổi nhanh chóng, các FTA thế hệ mới được ký kết với các quốc gia phát triển vừa giúp Việt Nam nâng cao nội lực, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa gắn với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh.

Hai là, các FTA thế hệ mới là đòn bẩy phát triển thương mại nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế

Các FTA thế hệ mới có các nội dung mới là: thương mại điện tử; khuyến khích sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ; hỗ trợ kỹ thuật; dành thời gian chuyển đổi hợp lý để nước đi sau có thể điều chỉnh chính sách theo lộ trình phù hợp với trình độ phát triển của quốc gia đi trước,...

Các FTA thế hệ mới chính là các hiệp định “WTO cộng”, với các cam kết đều cao hơn so với cam kết của WTO. Những nội dung trước đây từng bị bỏ qua, nay cần thiết phải chấp nhận, do bối cảnh thương mại quốc tế đã thay đổi như: sản xuất xanh, bảo vệ động, thực vật, quyền sở hữu trí tuệ, tự vệ thương mại, quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham nhũng, giải quyết tranh chấp giữa chính phủ nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài,...

Với các FTA thế hệ mới, nền kinh tế nước ta có độ mở thuộc loại lớn nhất thế giới. Khi thực hiện CPTPP và EVFTA, thương mại hai chiều và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã tăng trưởng ở mức cao hơn, đóng góp nhiều hơn vào phát triển kinh tế, giải quyết việc làm. Hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sang các đối tác FTA thế hệ mới.

Như vậy, các FTA thế hệ mới đã và sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường và thu được giá trị gia tăng cao hơn thông qua việc thiết lập các chuỗi cung ứng mới với thuế suất ưu đãi hơn, tạo cú hích lớn cho đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Từ đó, thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững trong dài hạn.

Ba là, các FTA thế hệ mới thể hiện vị thế, năng lực của Việt Nam về thúc đẩy nhân quyền trong hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các FTA thế hệ mới giúp Việt Nam nâng cao nội lực để ứng phó tốt hơn với tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, các diễn biến bất lợi trên thế giới (căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc, xung đột Nga - Ucraina và những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền trong quan hệ quốc tế...).

Với việc đã và sẽ ký kết một loạt FTA thế hệ mới, Việt Nam khẳng định quyết tâm mạnh mẽ trong việc thúc đẩy quan hệ song phương, đa phương một cách toàn diện, trong đó có lĩnh vực nhân quyền. Các FTA này giúp Việt Nam có điều kiện thể hiện và nâng cao sức mạnh mềm (nguồn nhân lực, bản sắc văn hóa,...), nhất là để các đối tác quốc tế, đặc biệt là các quốc gia phát triển, hiểu rõ hơn thành tựu nhân quyền ở nước ta. Thông qua FTA thế hệ mới, các thế lực cực hữu tại các nước phương Tây không còn chống phá Việt Nam quyết liệt về dân chủ, nhân quyền như trước đây.

Việt Nam hy vọng sẽ tạo ra những tác động tích cực về nhân quyền gắn với phát triển thương mại, thông qua nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng việc làm, nâng cao các tiêu chuẩn về môi trường lao động, đời sống của người dân phù hợp với các điều ước quốc tế.

2. Nội luật hóa nhằm thực hiện các điều ước quốc tế

Theo Luật Điều ước quốc tế năm 2016, ngoại trừ Hiến pháp, quy định của điều ước quốc tế sẽ phải được ưu tiên áp dụng so với pháp luật quốc gia(1). Khi trở thành thành viên của FTA thế hệ mới, Việt Nam có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quy định của hiệp định đã ký kết về thương mại và nhân quyền.

Các điều ước quốc tế nói chung, các FTA thế hệ mới nói riêng, thường không yêu cầu các quốc gia thành viên phải thực hiện nghĩa vụ cụ thể để bảo đảm các quy định của điều ước được tôn trọng và thực thi trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Trên cơ sở chủ quyền, mỗi quốc gia sẽ tự quyết định cách thức thực hiện điều ước để thi hành nghĩa vụ thành viên. Vì vậy, mỗi quốc gia có những cách thức khác nhau (áp dụng trực tiếp hay gián tiếp) nhằm tôn trọng và thực hiện đầy đủ điều ước trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Ở nước ta, Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 ghi nhận cả hai cách thức áp dụng trực tiếp và gián tiếp nhằm thực hiện điều ước quốc tế. Luật này ghi nhận trách nhiệm của Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ trong việc xem xét và quyết định cách thức thực hiện đối với từng loại điều ước khác nhau. Trong đó, chỉ những điều ước nào quy định đã đủ rõ, đủ chi tiết mới tiến hành áp dụng trực tiếp. Tuy vậy, trên thực tế, hầu hết các điều ước quốc tế đều được Việt Nam thực hiện thông qua cách thức nội luật hóa (chuyển hóa điều ước hay áp dụng gián tiếp).

Nội luật hóa là việc cơ quan nhà nước của quốc gia thành viên có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng các nội dung, tinh thần của các điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung để đưa các quy định của điều ước vào trong hệ thống pháp luật quốc gia. Đây là phương thức thực hiện khá phổ biến của các quốc gia, vì vừa bảo đảm sự thống nhất, ổn định và đặc thù của pháp luật quốc gia, vừa bảo đảm được nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong quá trình thực hiện các FTA thế hệ mới nói riêng và các điều ước quốc tế nói chung.

Để nội luật hóa các cam kết trong CPTPP và EVFTA, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12-11-2018 và Nghị quyết số 102/2020/QH14 ngày 08-6-2020; trong đó xác định phải nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung một số văn bản luật như: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015...

Hiện nay, Việt Nam đã và đang tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều văn bản quy phạm pháp luật để nội luật hóa các quy định của CPTPP và EVFTA. Nổi bật là kết quả sửa đổi Bộ luật Lao động năm 2012 thành Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 với nhiều điểm mới tiếp cận những giá trị phổ quát về nhân quyền, như hợp đồng lao động có lợi cho người lao động, giải quyết tranh chấp lao động bằng đối thoại, tổ chức đại diện người lao động trong doanh nghiệp...

Theo Tiến sĩ Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam: “Đây là một tiến bộ quan trọng do những sửa đổi trong Bộ Luật Lao động sẽ cải thiện đáng kể vấn đề việc làm và quan hệ lao động của Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập quốc tế và thương mại công bằng”(2).

Ngoài ra, để tuân thủ và thực hiện nghiêm túc các FTA, Việt Nam đã đăng ký tham gia 20 công ước về quyền lao động như Công ước về tuổi tối thiểu của trẻ em được tham gia vào lao động công nghiệp; Công ước về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ; Công ước về không phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; Công ước về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc; Công ước về chính sách việc làm; Công ước về lao động hàng hải...

Trong công tác nội luật hóa, nước ta cũng không cần tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật đối với tất cả các quy định không được áp dụng trực tiếp trong các FTA thế hệ mới. Vì pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương thích với nhiều cam kết trong các điều ước quốc tế. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu hướng tới những cam kết mà pháp luật Việt Nam chưa tương thích hoặc chưa có quy định.

Cho đến nay, công tác nội luật hóa các điều ước quốc tế, trong đó có các FTA thế hệ mới, đã giúp Việt Nam chủ động thực hiện nghĩa vụ thành viên, bảo đảm các quy định được triển khai, thực hiện thông suốt trên thực tế. Tuy vậy, FTA thế hệ mới có phạm vi rộng, yêu cầu cao nên khối lượng công việc nội luật hóa lớn; từ đó đặt ra nhiều thách thức đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, nhất là cam kết về những nội dung mới, như lao động và môi trường. 

Đặc điểm của các FTA thế hệ mới, đặc biệt EVFTA, là rất coi trọng việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị cơ bản (nhóm quyền con người thế hệ thứ nhất), còn các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và tập thể (nhóm quyền con người thế hệ thứ hai, ba) như môi trường, lao động, phát triển bền vững, chủ yếu được yêu cầu giải quyết theo các cơ chế hòa giải thông qua các cuộc tham vấn chính phủ. Do vậy, chẳng hạn EVFTA không đưa ra tiêu chuẩn riêng về lao động và môi trường, mà chỉ khẳng định lại các tiêu chuẩn lao động của ILO và các tiêu chuẩn môi trường, phát triển bền vững của Liên hợp quốc(3).

Công tác nội luật hóa các FTA thế hệ mới, trước hết là CPTPP và EVFTA, liên quan đến rất nhiều quy định quốc tế, chẳng hạn đến công ước ICSID về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân quốc gia khác hay các hiệp định và cơ chế hợp tác đa phương về bảo vệ môi trường. Đó là những công ước mà Việt Nam chưa tham gia, nhưng chúng thường được dẫn chiếu khi thực hiện CPTPP, EVFTA và cả các FTA thế hệ mới khác. Đây là một thách thức và do đó, công tác nội luật hóa các điều ước quốc tế này đến nay vẫn còn bị chậm so với thời hạn cam kết.

3. Phương hướng, giải pháp

Thứ nhất, tăng cường nội luật hóa các điều ước quốc tế, đồng thời củng cố, phát triển các nguồn lực địa - chính trị, kinh tế, văn hóa để chủ động, tích cực tham gia “sân chơi” kinh tế toàn cầu

Trên thực tế, việc thực hiện các cam kết về phát triển thương mại, thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam (cũng như các quốc gia khác) chịu sự tác động của nhiều yếu tố chính trị, pháp lý..., trong đó nổi lên yếu tố quản trị quốc gia. Thí dụ, khả năng của chính phủ trong việc xây dựng, thi hành chính sách; mức độ tôn trọng của người dân và chính quyền đối với các thể chế thương mại và nhân quyền trong sân chơi toàn cầu.

Các FTA thế hệ mới, mặc dù là các điều ước quốc tế về thương mại mang tính pháp lý, nhưng việc thực thi phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, như vị trí, uy tín của quốc gia thành viên trên trường quốc tế... Nhiều đối tác quốc tế, như EU, trong “quan hệ làm ăn”, thường mềm dẻo, lựa chọn biện pháp trừng phạt thông qua các cơ chế của Liên hợp quốc và không nhất quán áp dụng các quy định trả đũa đối với những vi phạm các cam kết về nhân quyền, nhất là ở các nhóm quyền thế hệ 2 và 3 (quyền kinh tế, xã hội, văn hóa...), khi bên đối tác có địa vị chính trị - kinh tế mạnh.

Do đó, bên cạnh việc xác lập tính hài hòa giữa các quy định của pháp luật quốc gia với các FTA thế hệ mới, Việt Nam đồng thời phải củng cố, phát triển các nguồn lực địa - chính trị, kinh tế, văn hóa... Chỉ như vậy mới có thể vừa đẩy mạnh phát triển thương mại gắn với thúc đẩy nhân quyền, vừa giữ vững độc lập, chủ quyền trong hội nhập quốc tế.

Thứ hai, nắm vững các thể chế bảo đảm quyền con người trong thực hiện các FTA thế hệ mới để phát triển thương mại gắn với thúc đẩy nhân quyền

Đó là ba nhóm cơ bản sau(4): (1) Nhóm các điều khoản sử dụng các điều kiện (conditional labour provisions) để buộc các quốc gia thành viên phải thực hiện các cam kết. Nhóm này chủ yếu quy định các tiêu chuẩn liên quan đến bảo đảm quyền lao động và sử dụng các điều kiện để khuyến khích các quốc gia tham gia áp dụng hay thực thi các tiêu chuẩn đó. Trong trường hợp quốc gia thành viên thực hiện đúng theo cam kết, họ sẽ nhận được một số ưu đãi hay lợi ích trong hợp tác kỹ thuật. Trái lại, nếu không thực hiện (hay không áp dụng) các tiêu chuẩn đã được quy định trong hiệp định, quốc gia thành viên đó có thể phải chịu phạt tiền hay bị trả đũa về thương mại.

(2) Nhóm những điều khoản thực thi mang tính chất khuyến khích (promotional labour provisions): chiếm khoảng 60% tổng số quy định về lao động trong các FTA thế hệ mới. Những điều khoản này đưa ra một khung khổ đối thoại, hợp tác và giám sát lẫn nhau nhằm cải thiện tiêu chuẩn, điều kiện lao động thay vì gắn với hậu quả kinh tế. Theo đó, nếu quốc gia thành viên tuân thủ những tiêu chuẩn đã được ghi nhận trong hiệp định, các quốc gia này sẽ được hưởng những lợi ích kinh tế nhất định, thí dụ tăng hạn ngạch xuất khẩu. Trong trường hợp vi phạm và không khắc phục được hiện trạng theo các điều khoản đã thỏa thuận, sẽ phải đóng góp một khoản tiền vào quỹ lao động.

Nhóm điều khoản này có thể được thực hiện ở cả hai cấp độ quốc gia và doanh nghiệp và là một trong những biện pháp được áp dụng để đối phó với các hành vi vi phạm quyền con người và các nguyên tắc dân chủ.

(3) Nhóm các quy định liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp các vụ việc trong trường hợp hai bên có phát sinh bất đồng: chúng cho phép các bên sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp đình chỉ hiệp định hoặc áp dụng các biện pháp trả đũa đối với đối tác.

Ngoài ra, một số FTA thế hệ mới có các quy định liên quan đến “quyền điều chỉnh”, chẳng hạn nhằm điều hòa các tiêu chuẩn lao động theo hướng bảo đảm tự do hóa thương mại. Theo đó, các quyền lao động không được cản trở quá trình tự do hóa và các quốc gia thành viên vẫn được tự do xác định mức độ bảo hộ lao động của mình. Có thể nói, các điều khoản về “quyền điều chỉnh” cung cấp một khoảng thời gian rộng rãi để các quốc gia thành viên đạt được thỏa thuận nhằm điều chỉnh việc bảo đảm quyền lao động của mình phù hợp với điều ước quốc tế. 

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế pháp luật

Với việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào “sân chơi” quốc tế thông qua các FTA, trong đó có những FTA thế hệ mới, Quốc hội cần đóng vai trò chủ động, tích cực hơn nữa trong quá trình này. Vai trò của Quốc hội thể hiện tập trung chủ yếu ở việc phê chuẩn và “nội luật hóa” các cam kết thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể liên quan trong nước (cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân), để các cam kết quốc tế tác động và phát huy hiệu lực thực tế. Theo cam kết quốc tế, Việt Nam phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm bảo đảm đáp ứng được các tiêu chuẩn cao của FTA thế hệ mới.

Cụ thể, cần tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bãi bỏ các quy định pháp luật không còn phù hợp và ban hành những văn bản pháp luật tương thích với các điều ước quốc tế, bảo đảm thực hiện đúng luật pháp quốc tế và những cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết. Trong đó, chú trọng cải cách, hoàn thiện thể chế pháp luật tương thích với những công ước thường được dẫn chiếu khi thực hiện các FTA thế hệ mới, như Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia và các công dân quốc gia khác (ICSID), hay những hiệp định và cơ chế hợp tác đa phương về bảo vệ môi trường. Tiếp tục thiết lập được cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành Trung ương và địa phương với doanh nghiệp; đồng thời, đẩy mạnh liên kết, hợp tác và trao đổi thông tin, kinh nghiệm với các doanh nghiệp và chính phủ các quốc gia thành viên FTA, với Ủy ban Thương mại quản lý giám sát việc thực hiện CPTPP, EVFTA,... và với ILO, Liên hợp quốc, để chủ động ứng phó với các tình huống khó khăn, thách thức mới phát sinh, nhằm thực hiện hiệu lực, hiệu quả quá trình phát triển thương mại gắn với thúc đẩy nhân quyền.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)

Ngày nhận: 02-3-2023; Ngày bình duyệt: 12-3-2023; Ngày duyệt đăng: 22-3-2023.

 

(1) https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Luat-dieu-uoc-quoc-te-2016-303284.aspx

(2)https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/Pressreleases/WCMS

(3) Xem: Ngô Quốc Chiến: Các giá trị nhân quyền thông qua các hiệp định thương mại tự do và thách thức đối với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 08(384)-2019.

(4) Lê Văn Trung: Cơ chế bảo đảm quyền con người trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mớihttp://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3420-co-che-bao-dam-quyen-con-nguoi-trong-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi.html.

PGS, TS NGUYỄN THANH TUẤN

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

TS ĐINH ĐỨC DUY

Trường Chính trị tỉnh Bình Dương


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét