Chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay là sự nhất quán về
đường lối, chủ trương và luật pháp về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc của
Đảng và Nhà nước Việt Nam; là tư tưởng quốc phòng đúng đắn, được lựa chọn và
xác lập phù hợp với tình hình thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay; là sự kế thừa truyền thống, tinh hoa văn hóa dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, được nâng lên và cấu thành nghệ thuật quân
sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Việt Nam ban hành nhiều chính sách quốc phòng, là sự thể hiện
tầm cao trí tuệ, đúc kết tài thao lược quân sự, quốc phòng của Đảng, Nhà nước,
quân đội, phù hợp với bối cảnh quốc tế, thực tiễn đất nước, hòa bình hoặc chiến
tranh, xung đột mà Việt Nam đang phải đối diện. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ bảo
vệ được toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn phá vỡ thế bao vây,
cấm vận, mở đường hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, giữ vững nền hòa
bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất
nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Để chuẩn bị cho đất nước bước vào thời kỳ phát triển nhanh và
bền vững, thực hiện các mục tiêu chiến lược đến năm 2045, đưa Việt Nam trở
thành một nước thịnh vượng, hùng cường và có nhiều đóng góp quan trọng vào giữ
vững, xây đắp nền hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và thế giới,
Đảng và Nhà nước ta ban hành chính sách quốc phòng Việt Nam (1), với
một số quan điểm cơ bản:
“Bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên
kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự
hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
“Một đồng”: Đồng thời tăng cường hợp tác quốc phòng
với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức
an ninh chung.
“Một tùy”: Tùy theo diễn biến của tình hình và
trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ
quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp.
Như vậy, “mẫu số chung” của chính sách quốc phòng Việt Nam là:
“Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng
như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi
ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”. Điều này thể hiện một chính sách
quốc phòng độc lập, tự vệ, tiến bộ và đúng đắn của Việt Nam, vừa bảo đảm lợi
ích quốc gia, dân tộc, vừa tôn trọng và hài hòa với lợi ích của các quốc gia
khác và cộng đồng quốc tế.
“Không tham gia liên minh quân sự” là chính sách đầu tiên, chi
phối và quyết định toàn bộ các chính sách quốc phòng khác của Việt
Nam. Thực hiện chính sách quốc phòng nhất quán độc lập, tự chủ,
Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng bằng nguồn lực mọi mặt của đất nước và
con người Việt Nam; độc lập song không biệt lập, mà đồng thời (“một đồng”) chú
trọng tăng cường quan hệ quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền của nhau, cùng có lợi, vì hòa bình và sự tiến bộ của thế
giới.
Bởi vậy, những luận điệu cổ xúy Việt Nam “chọn phe”, “liên thủ”
hoặc “liên minh” quân sự với nước khác để “gia tăng sức mạnh bảo toàn chủ quyền
lãnh thổ”, cũng như đi ngược lại nguyên tắc “bốn không”, bản chất là âm mưu
hòng làm suy yếu nền quốc phòng của Việt Nam, phá vỡ nguyên tắc nền quốc phòng
tự chủ của một quốc gia độc lập, dẫn đến sự lệ thuộc vào các lực lượng quân sự
khác, gây nên những hệ lụy to lớn ảnh hưởng tới sức mạnh, chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Cùng với “bốn không”, “một đồng”, chính sách “một tùy” thể hiện
sự khéo léo, linh hoạt, nhưng hết sức cứng rắn trong quan hệ quốc tế, quốc
phòng, quân sự của Việt Nam. Trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, Việt Nam
sẽ “cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức
độ thích hợp”, nhằm tăng thêm thực lực, sức mạnh quốc phòng, sẵn sàng đập tan
mọi âm mưu, hành động xâm hại đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc.
Mối quan hệ biện chứng, tương hỗ, chuyển biến linh hoạt giữa
“bốn không”, “một đồng”, “một tùy” trong chính sách quốc phòng Việt Nam thể
hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nghệ thuật quân sự của dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại, bảo vệ
tuyệt đối chủ quyền đất nước, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc.
Lịch sử chiến tranh và quân đội trên thế giới đã chứng minh về
tính chất hai mặt của liên minh quân sự. Hiện nay, thế giới đang tồn tại một số
liên minh, khối quân sự tiêu biểu: 1) Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)
- liên minh quân sự 30 nước do Mỹ đứng đầu; 2) Tổ chức Hiệp ước An ninh tập thể
(CSTO) - liên minh chính trị quân sự 6 nước châu Âu (thuộc khối Liên Xô trước
đây) do Nga dẫn đầu; 3) Tổ chức An ninh tập thể Thượng Hải gồm 5 nước Nga,
Trung Quốc, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan; 4) Liên minh quân sự 3 nước
Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Mỹ (ANZUS); 5) Liên minh quân sự Mỹ - Nhật Bản - Hàn
Quốc; 6) Liên minh quân sự Nga - Bê-la-rút... Ngoài ra, trước sự tranh giành,
mâu thuẫn và đối đầu quyết liệt về lợi ích, thế giới đã hình thành các “Bộ Tứ”,
“Bộ Tam kim cương” ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, như: Mỹ -
Nhật Bản - Ô-xtrây-li-a - Ấn Độ; Nga - Trung Quốc - I-ran; Nga - I-ran - Ấn Độ;
quan hệ Đối tác An ninh tăng cường ba bên (AUKUS): Mỹ - Ô-xtrây-li-a -
Anh…
Trong tính tương đối, các liên minh, khối quân sự trên tạo ra
một cục diện tương đối hòa bình, ổn định cho khu vực và thế giới trong thời
gian qua; nhưng mặt khác, chính các khối liên minh quân sự này đã và đang gây
ra những căng thẳng, châm ngòi cho các cuộc chiến tranh, xung đột, tranh chấp,
chủ nghĩa khủng bố kéo dài dai dẳng. Mâu thuẫn về lợi ích căn bản giữa các nước
lớn đã thúc đẩy những hành động quân sự, chính sách quốc phòng cực đoan. Các
nước khác trong và ngoài các khối này luôn bị lôi kéo hoặc cuốn vào những cuộc
xung đột, buộc phải chi phí, tiêu hao nguồn lực quốc gia cho quốc phòng, an
ninh để tăng cường phòng bị và tham gia nhiều hoạt động quân sự của liên minh;
hoặc liên tục bị xung đột, chiến tranh, chủ nghĩa khủng bố tàn phá... khiến cho
đất nước không thể phát triển, ngày càng phụ thuộc, lệ thuộc sâu hơn vào các
nước lớn. Và, một khi lợi ích quốc gia của các nước lớn hoặc các quốc gia thuộc
khối quân sự lớn đạt được thì lợi ích của các đồng minh nhỏ hoặc các nước nhỏ
sẽ bị gạt đi một cách phũ phàng… Sự thật đó cho thấy, việc “chọn phe” cũng có
thể đồng nhất với sự đánh mất chủ quyền quốc gia - dân tộc, khi quyền căn bản
nhất là độc lập về đường lối chính trị đối nội và đối ngoại, quân sự đã bị nước
ngoài can thiệp. “Chọn phe” phần nào thể hiện sự lệ thuộc, sự lạc hậu về tư
tưởng và hành động quốc phòng, quân sự, đi ngược lại xu thế hòa bình và hợp tác
của thời đại. Các quốc gia trên thế giới dù có cùng chung ý thức hệ hoặc khác
biệt ý thức hệ đều có thể tồn tại, chung sống hòa bình, thịnh vượng nếu các bên
cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Vì vậy, việc
kiên trì chính sách quốc phòng “bốn không”, “một đồng”, “một tùy” là sự lựa
chọn đúng đắn của Việt Nam.
Lịch sử và hiện tại đều chứng minh, Việt Nam có đủ sức mạnh để
tự bảo vệ mình mà không cần lệ thuộc, phụ thuộc vào bất cứ khối và liên minh
quân sự nào. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam chính là sức mạnh tổng hợp
quốc gia, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất
của Nhà nước; của đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Khối đại đoàn kết
toàn dân tộc của nhân dân Việt Nam đã trở thành sức mạnh vô địch mà không một
kẻ địch nào có thể chiến thắng được. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Đoàn
kết là sức mạnh vô địch. Ta kháng chiến thắng lợi, cũng nhờ đoàn kết. Ta xây
dựng hòa bình thắng lợi, cũng nhờ đoàn kết” (2).
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội
là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt
Nam. Quá trình xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam đã khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng đối với quân đội vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật trong xây
dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân; đồng thời là nhân tố
quyết định bảo đảm cho quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
tổ chức và cán bộ; xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị
tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc bất di bất dịch đó và thực tiễn xây dựng,
trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam là minh chứng hùng hồn đập tan mưu
đồ của các thế lực thù địch đòi “phi chính trị hóa”, “trung lập hóa” và “dân sự
hóa” quân đội, hòng làm cho quân đội nước ta mất phương hướng chính trị, xa rời
lý tưởng, mục tiêu chiến đấu.
Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đồng thời tăng
cường khả năng quốc phòng; phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với
hoạt động đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam thực hiện chiến lược quốc phòng dựa trên tổng thể các
hoạt động chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa - xã hội và quân sự nhằm
triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh. Quán triệt
phương châm phòng thủ toàn diện, chủ động, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, quốc
phòng Việt Nam sử dụng các biện pháp tổng hợp nhằm giữ vững ổn định bên trong,
ngăn ngừa các nguy cơ can thiệp từ bên ngoài.
Đó còn là sức mạnh của thực lực quân sự, quốc phòng Việt Nam đã
không ngừng được xây dựng, lớn mạnh cả về lực lượng, tiềm lực, thế trận, khoa
học - công nghệ, nghệ thuật chỉ huy, tác chiến, sự tập trung thống nhất về lãnh
đạo và quản lý quốc phòng - an ninh quốc gia, vùng, miền chiến lược, địa phương
và cơ sở. Các lực lượng vũ trang, nhất là quân đội được nhanh chóng xây dựng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại... luôn trong trạng thái sẵn sàng
chiến đấu cao bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng,
tích cực tham gia trách nhiệm và hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình
thế giới, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của đất nước nói chung, của
Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế; đóng góp thiết thực
vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc.
Rõ ràng, những thành tựu, cùng thực lực sức mạnh quân sự, quốc
phòng của Việt Nam đã tạo tiền đề vững chắc cho sự lựa chọn, kiên định, thống
nhất triển khai thực hiện chính sách quốc phòng độc lập, tự vệ, vì hòa bình; là
điều kiện thuận lợi cho xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
đồng thời tự nó là minh chứng đanh thép đập tan những luận điệu xuyên tạc, sai
trái, thù địch, kêu gọi từ bỏ chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay./.
V3.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét