VIỆT NAM CÓ ĐÀN ÁP MẠNG XÃ HỘI KHÔNG?
Hiện
nay, các phần tử phản động, chống phá tiếp tục sử dụng luận điệu xuyên tạc về
tình hình tự do thông tin, tự do Internet, mạng xã hội ở Việt Nam nhằm mục đích
chống phá nền dân chủ, kích động, chia rẽ trong xã hội, tạo cớ để các thế lực
bên ngoài can thiệp vào nước ta. Chúng cho rằng, ở Việt Nam không có tự do
thông tin, tự do mạng xã hội, mạng xã hội bị kiểm duyệt gắt gao, thậm chí còn
hùng hổ vu cáo Việt Nam đàn áp Mạng xã hội. Vậy, Việt Nam có đàn áp mạng xã hội
không? Câu trả lời là KHÔNG!
Ở
Việt Nam, mạng xã hội bắt đầu du nhập vào từ những năm 2000 dưới hình thức các
trang nhật ký điện tử (blog). Tại Việt Nam, thời điểm đầu năm 2024, thực trạng
sử dụng kỹ thuật số được thống kê như sau: có 78,44 triệu người dùng Internet
(chiếm 79,1% dân số); 73,3% dân số sử dụng mạng xã hội; có tổng cộng 168,5
triệu kết nối di động đang hoạt động; 92,7% tổng số người dùng Internet tại
Việt Nam đã sử dụng ít nhất một nền tảng truyền thông xã hội. Trong đó,
Facebook là mạng xã hội phổ biến nhất vì nhờ có thiết kế thuận lợi cho người sử
dụng khi tạo lập tài khoản cá nhân, cũng như những tính năng trao đổi thông
tin, bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân với những người cùng nhóm, cùng sở
thích... nên đã thu hút được nhiều thành viên tham gia. Tiếp sau Facebook là
các trang My Space, Twitter, các blog…
Với cơ chế hoạt động của mạng xã hội có
tính chất tương tác cao, “cư dân mạng” dễ dàng chia sẻ những thông tin cá nhân
với nhau, nên đã thu hút số người tham gia ngày càng đông, trong đó có giới
trẻ. Điều này đã tạo ra những mặt thuận lợi cho mọi thành viên khi tham gia
mạng xã hội, đó là có thể chia sẻ cũng như tìm kiếm những thông tin cần thiết
phục vụ nhu cầu hoạt động riêng của mỗi người. Tuy nhiên, bên cạnh những thông
tin chính thống, bổ ích, có tính giáo dục, còn có các thông tin không chính
thống, sai sự thật, xuyên tạc, cổ xúy cho lối sống lệch chuẩn cũng được đưa lên
mạng xã hội với các mục đích khác nhau.
Mạng
xã hội đã và đang trở thành công cụ hàng đầu để các thế lực thù địch lợi dụng
tiến hành phá hoại tư tưởng; làm gia tăng nguy cơ lộ lọt bí mật nhà nước và
mạng xã hội tác động tiêu cực đối với sự phát triển văn hóa, nguy cơ làm xói
mòn bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, cùng với việc phát triển mạng xã hội, cần
phải có sự quản lý để phát huy tốt nhất những mặt tích cực mà mạng xã hội mang
lại.
Các thế lực thù địch với cách nhìn phiến
diện cho rằng, ở Việt Nam mạng xã hội bị đàn áp và mạng xã hội không có tự do
thông tin, người dùng mạng xã hội không được bày tỏ chính kiến, suy nghĩ của
mình... Đây là thông tin hoàn toàn bịa đặt và sai sự thật, bởi vì Đảng, Nhà
nước ta luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự
do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do thông tin, tự do Internet.
Thực tế, chúng ta đạt được những thành tựu trong phát triển kinh tế như ngày
nay, một phần là nhờ chúng ta tận dụng tốt cơ hội từ Internet, chính điều kiện
phát triển tự do về Internet và mạng xã hội đã góp phần quan trọng trong xây
dựng, phát triển đất nước; điều này đã là “một phần tất yếu” của các tầng lớp
xã hội.
Thông
qua các trang mạng xã hội, người dân có thể bày tỏ thông tin và chính kiến của
mình; không những thế còn có nhiều cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị từ
Trung ương đến địa phương đã sử dụng Internet, mạng xã hội để làm việc, giải
quyết các thủ tục hành chính và liên hệ trực tiếp với người dân... Những việc
đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ ở Việt Nam đã chứng minh rằng ở Việt Nam không
có chuyện đàn áp mạng xã hội, mà trái lại còn được Đảng, Nhà nước bảo đảm sự
phát triển tự do. Thực hiện quyền tự do Internet, mạng xã hội luôn được đặt
trong khung khổ pháp luật. Nhờ đó mới bảo đảm an ninh mạng, phòng ngừa, ngăn
chặn các hoạt động lợi dụng mạng xã hội, Internet để vi phạm pháp luật Việt
Nam. Theo đó, trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp như: ban hành các văn bản pháp luật (Luật Báo chí năm 2016;
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật An ninh mạng năm 2018; Nghị định số
72/2013/NÐ-CP quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên
mạng; Nghị định số 174/2013/NÐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện;
Quy định về những điều đảng viên không được làm…) triển khai công tác phát
hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm các đối tượng có hoạt động lợi dụng Internet,
mạng xã hội vi phạm pháp luật. Điều này là hoàn toàn phù hợp và không chỉ ở
Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện như vậy. Ngay ở Mỹ, quốc
gia tự cho mình là “đất nước tự do”, Quốc hội nước này đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật nhằm xử lý, ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để
khủng bố, kích động bạo lực hay vi phạm sở hữu trí tuệ... Do đó, ở Việt Nam
không hề có chuyện đàn áp mạng xã hội, hay tra tấn trái pháp luật bất kỳ
blogger nào. Rõ ràng, đằng sau những thông tin bịa đặt đó là âm mưu chính trị
của các thế lực thù địch nhằm kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc
và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Nhận
rõ các quan điểm sai trái cho rằng Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, không
có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, đàn áp mạng xã hội và đưa ra các luận cứ
khoa học để phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái đó là việc làm cần thiết.
Đồng thời, qua đó cũng tự xem lại chính mình, xem lại chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước chỗ nào chưa thực hiện tốt, chỗ nào chưa phù hợp
để từng bước hoàn thiện, nhằm thực sự đem lại quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho Nhân dân. Như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “... Đảng cách mạng
cần phê bình và tự phê bình cũng như người ta cần không khí”, “Mỗi cán bộ, mỗi
đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày
phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ
vô cùng”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét