Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một số vấn đề đặt ra

Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết nhằm hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, như việc kiểm soát hiệu quả quyền lực nhà nước, minh bạch hơn nữa trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng văn hóa pháp luật trong nhân dân...

Sự phát triển lý luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đặt nền móng cho nền lập hiến Việt Nam, tiền đề quan trọng cho Nhà nước pháp quyền Việt Nam sau này. Hiến pháp năm 1946 thể hiện rõ yêu cầu dân chủ và pháp quyền trong chế độ nhà nước kiểu mới, đồng thời thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền lập hiến thuộc về nhân dân với cách thức là quốc hội lập hiến và có sự phân biệt giữa hoạt động lập hiến và hoạt động lập pháp. Theo đó, bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là “các ông quan cách mạng” mà là “công bộc của nhân dân”, chăm lo cho sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân; pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ để bảo vệ, thực hiện lợi ích vì con người. Với nền tảng của các giá trị, kinh nghiệm từ thực tiễn và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã chủ trương xây dựng nhà nước với những đặc trưng của nhà nước pháp quyền là: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền, bao gồm: lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vào văn kiện của Đảng với yêu cầu: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam”. Đại hội IX (năm 2001) và X (năm 2006) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định Nhà nước ta là: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Chủ trương đó được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và nhiều luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.

Trải qua các kỳ đại hội cùng với kinh nghiệm được đúc kết trong quá trình lãnh đạo, nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Từ lý luận và thực tiễn cho thấy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang giá trị tiến bộ của nhân loại, vừa có các đặc trưng của Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hành dân chủ gắn với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Như vậy, có thể khẳng định, trên phương diện lập hiến, Hiến pháp năm 2013 đã quy định những vấn đề căn cốt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bản chất, nguyên tắc, tổ chức, hoạt động, chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước; phân quyền giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, vị trí của pháp luật đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam; vấn đề quyền con người, quyền công dân; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khi đề cập đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”.

Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định và yêu cầu: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãnh phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”.

Các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua một dự án luật tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV_Ảnh: TTXVN

Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả về mô hình, tổ chức bộ máy, đồng thời mang lại hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết một cách khoa học và toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu và bảo đảm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ nhất, về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm và quyền lực được thực thi trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật là yêu cầu quan trọng trong quá trình xây dựng và vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất trên cơ sở phân công và kiểm soát quyền lực là bước phát triển về lý luận trong nguyên lý tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hoạt động kiểm soát quyền lực thường được thực hiện theo cơ chế kiểm soát từ bên trong bộ máy nhà nước (quyền lực kiểm soát quyền lực) và cơ chế kiểm soát từ bên ngoài (nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước). Hiến pháp năm 2013 xác định: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Như vậy, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn là đối tượng chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Việc thực hiện cơ chế kiểm soát từ phía cơ quan tư pháp đối với cơ quan thực hiện quyền hành pháp cũng được xác lập thông qua cơ chế phán quyết của tòa hành chính đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc cơ quan quản lý hành chính nhà nước.

Hiến pháp năm 2013 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhưng cơ chế kiểm soát còn thiếu chặt chẽ. Hiện nay mới chỉ thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực của Quốc hội đối với cơ quan hành pháp và tư pháp, mà chưa rõ cơ chế kiểm soát quyền lực ngược lại, tức là cơ chế kiểm soát quyền lực của hai cơ quan này đối với Quốc hội. Như vậy, nguyên lý mọi quyền lực đều được kiểm soát chưa thực sự được bảo đảm. Quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện(12). Cơ chế kiểm soát quyền hành pháp, quyền tư pháp của Quốc hội theo quy định hiện hành chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Việc kiểm soát của Quốc hội đối hoạt động hành pháp, tư pháp thông qua xem xét báo cáo, chất vấn tại kỳ họp và hoạt động giám sát của Quốc hội khó khả thi đối với những nội dung khó và phức tạp, nếu không có sự nghiên cứu, chuẩn bị công phu, phân tích đánh giá trên cơ sở khoa học, thì đại biểu khó chất vấn, phản biện một cách thỏa đáng. Hiện nay, Quốc hội được phép thành lập ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, dự thảo nghị quyết hoặc điều tra làm rõ về một vấn đề cụ thể khi xét thấy cần thiết (Điều 88, Luật Tổ chức Quốc hội). Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay, Quốc hội chưa một lần thành lập Ủy ban lâm thời để thực hiện các nhiệm vụ đã được pháp luật quy định, nhất là “điều tra về một vấn đề nhất định”. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, khi đại biểu Quốc hội làm việc tại cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, kiêm nhiệm Đại biểu Quốc hội thì khó thực hiện tốt nhiệm vụ, đồng thời khó kiểm tra, giám sát hoạt động của các nhánh quyền lực một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, tỷ lệ đại biểu chuyên trách của Quốc hội vẫn còn thấp. Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi năm 2020) quy định số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội. Như vậy, số đại biểu Quốc hội chuyên trách theo quy định có sự tăng lên và số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách cũng tăng theo các khóa, nhưng cũng chỉ chiếm 34,2% (Quốc hội khóa XIV) và chiếm 38,07% (Quốc hội khóa XV). Thống kê cho thấy, đại biểu không chuyên trách vẫn chiếm gần 62% tổng số đại biểu và các đại biểu này chỉ dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội.

Quy trình xây dựng luật hiện nay có lúc, có nơi chưa bảo đảm kiểm soát tốt quyền lực. Việc thành lập ban soạn thảo luật, sửa đổi luật, chỉ định cơ quan soạn thảo đều do Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ thực hiện. Cách xây dựng luật này trong không ít trường hợp chưa bảo đảm yêu cầu khách quan, minh bạch trong quá trình soạn thảo. Công tác xây dựng luật được thực hiện qua nhiều bước, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng chịu sự tác động của luật. Do đó, việc kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật không đơn thuần là việc Quốc hội giám sát Chính phủ mà tất cả các chủ thể phải cùng giám sát lẫn nhau để bảo đảm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong xây dựng chính sách, pháp luật và luật được ban hành đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Thứ hai, minh bạch hoạt động cơ quan nhà nước. Minh bạch trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp có vai trò to lớn trong việc thiết lập và củng cố nhà nước pháp quyền, là điều kiện đặc biệt quan trọng xây dựng niềm tin đối với nhân dân và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu, sự minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước chưa cao. Căn cứ vào chỉ số PAPI, chỉ số công khai, minh bạch trong việc ra quyết định của cấp tỉnh từ năm 2018 đến 2021 có mức điểm cao nhất chỉ ở mức 6,5/10 (tỉnh Quảng Ninh, năm 2020).

Số lượng các bộ, ngành công khai dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước từ năm 2015 đến năm 2021 rất thấp, nhiều nhất có 23/56 đơn vị công khai dự toán (năm 2015) và chỉ có 11/56 đơn vị công khai quyết toán (năm 2021). Đối với chỉ số công khai ngân sách bộ, cơ quan trung ương theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (chỉ số MOBI) thì điểm trung bình chỉ số MOBI năm 2020 chỉ đạt 21,64 điểm, mức rất thấp so với yêu cầu. Có 34 trong tổng số 44 bộ, cơ quan trung ương có điểm công khai ngân sách. Có 10 bộ, cơ quan trung ương không có tên trong bảng xếp hạng 2020, đồng nghĩa với việc các cơ quan này không có thư mục công khai ngân sách và không công khai các tài liệu ngân sách trên cổng thông tin điện tử của đơn vị tại thời điểm khảo sát. Năm 2023, chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam đã cải thiện rõ rệt. Điểm xếp hạng chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam năm 2023 ở 3 trụ cột (minh bạch, sự tham gia của công chúng và giám sát ngân sách) đều tăng so với năm 2021; tuy nhiên, mức độ tham gia của công chúng vẫn còn ít.

Đối với việc công khai tình hình thực hiện dự toán và quyết toán, từ năm 2019 đến năm 2022, trung bình chỉ có 25,75 địa phương công khai dự toán và từ năm 2018 đến 2020 trung bình chỉ có 24,33 địa phương công khai quyết toán. Chỉ số công khai ngân sách thấp cho thấy, điểm xếp hạng trung bình về công khai ngân sách của các tỉnh, thành phố đạt 69,53/100 điểm. Đặc biệt, kết quả khảo sát chỉ số MOBI 2021 cho thấy, việc lập dự toán ngân sách của các tỉnh, thành phố chưa bảo đảm tin cậy cho quá trình thực hiện, nhất là đối với dự toán thu ngân sách, chỉ có một địa phương có mức chênh lệch giữa số dự toán và số quyết toán dưới 5%, trong khi có tới 53 tỉnh, thành phố có mức chêch lệch trên 15%.

Ngoài minh bạch tài khóa, minh bạch thu nhập và tài sản, thu nhập người có chức vụ, quyền hạn cũng là một yêu cầu quan trọng góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, ngày 30-10-2020, của Chính phủ, “Về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị” đã quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, “việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ vẫn còn nặng về hình thức”. Ngoài ra, việc minh bạch tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn vẫn gặp nhiều khó khăn trong quá trình xác minh vì quy định hiện hành chủ yếu dừng lại ở việc kê khai, công khai tài sản trong nội bộ cơ quan, đơn vị và “hầu hết các bản kê khai tài sản của cán bộ, công chức chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng cho nên khó khăn trong việc xác định tài sản tham nhũng và tài sản được hình thành từ tài sản tham nhũng; chưa có cơ sở dữ liệu tập trung đối với thông tin về tài sản phải đăng ký, gây khó khăn cho việc điều tra, xác minh truy tìm tài sản tham nhũng”.

Thứ ba, về văn hóa pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, văn hóa pháp luật là cơ sở vững chắc để nhà nước vững bền và phát triển, thể hiện qua hệ thống pháp luật hoàn thiện và tinh thần thượng tôn pháp luật của tất cả cán bộ và nhân dân. “Văn hóa pháp luật nói riêng, không chỉ là một trong những điều kiện, tiền đề để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà còn là một thước đo thể hiện sự tiến bộ, văn minh và nhân văn của một xã hội, một dân tộc, một quốc gia”. Tuy vậy, văn hóa pháp luật của nước ta còn chưa phát triển. Ý thức tuân thủ pháp luật và tính chủ động sử dụng pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế, vẫn tồn tại nếp nghĩ “phép vua thua lệ làng”, “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”. Nhận thức chính trị - pháp lý của nhân dân còn hạn chế dẫn đến việc tham gia của người dân vào hoạt động xây dựng pháp luật, phản biện chính sách của Nhà nước, kiểm soát quyền lực chưa hiệu quả. Những hạn chế đó trong văn hóa pháp luật ở Việt Nam là một trong những lực cản rất lớn cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số_Nguồn: baovephapluat.vn

Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong phạm vi bài viết, xin đề xuất một số giải pháp:

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước

Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, lập pháp nhằm bảo đảm khả năng loại bỏ sự lạm dụng quyền lực của bất kỳ cơ quan quyền lực nào trong bộ máy nhà nước. Xây dựng cơ chế kiểm soát hành vi "tham nhũng chính sách" trong hoạt động xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật. Cần tăng thêm số đại biểu Quốc hội chuyên trách vì chỉ khi hoạt động chuyên trách, chuyên nghiệp, đại biểu mới chuyên tâm và có thời gian làm nhiệm vụ của mình một cách độc lập và hiệu quả. Luật Trưng cầu ý dân đã quy định hình thức dân chủ trực tiếp, thể hiện rõ nét quyền lực thuộc về nhân dân, là phương thức biểu hiện của nhà nước pháp quyền. Vì vậy, cần sớm cụ thể hóa quy định về những vấn đề cần trưng cầu để bảo đảm tốt hơn cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Đồng thời, cần mở rộng và thiết lập cơ chế hữu hiệu để cử tri giám sát và bãi nhiệm đại biểu Quốc hội khi các đại biểu đó không thực hiện tốt nhiệm vụ đại biểu hoặc không còn được nhân dân tín nhiệm. Thiết lập cơ chế bảo đảm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội thẩm; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm; đồng thời kiểm soát tốt hoạt động tố tụng. Tòa án có độc lập xét xử mới bảo đảm được tính khách quan của các phán quyết, đặc biệt là trong trường hợp một bên của quan hệ tố tụng là cơ quan nhà nước.

Thứ hai, tăng cường minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước

Công khai, minh bạch là nền tảng của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là công vụ để kiểm soát quyền lực nhà nước(19). Công khai, minh bạch không chỉ là cơ chế giám sát, mà còn là biện pháp bảo vệ chính cán bộ và các cơ quan nhà nước khẳng định sự trong sạch, đúng đắn trong hoạt động của cơ quan, đơn vị và người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời góp phần ngăn ngừa các thế lực thù địch có thể lợi dụng sự thiếu thông tin để xuyên tạc, vu khống, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản, thu nhập và hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt đồng bộ và chặt chẽ. Đa dạng các hình thức công khai, minh bạch đối với bản kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và kiểm soát giao dịch có giá trị lớn. Đối với các nguồn thu nhập hoặc tài sản chứng minh được nguồn gốc, cần mở rộng rà soát tài sản. Nâng cao trách nhiệm đối với Kiểm toán nhà nước trong việc xem xét, xử lý những vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội trong việc tăng cường, đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin trên các phương tiện truyền thông về kết quả các hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra...

Thứ ba, xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật

Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của nhân dân; hình thành, phát triển lối sống có kỷ luật, làm việc theo pháp luật và giải quyết các vấn đề bằng pháp luật. Đồng thời, nâng cao chất lượng giáo dục, xây dựng con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, tôn trọng pháp luật và có văn hóa chính trị, pháp luật để tham gia góp ý, phản biện chính sách, pháp luật một cách khoa học. Các hành vi vi phạm pháp luật cần xử lý nghiêm minh nhằm thiết lập kỷ cương, phép nước, bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn./. 

ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét