Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 25-1 đến 1-2-2021, tại Thủ đô Hà Nội, sau khi thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình
Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2021
NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XIII CỦA ĐẢNG
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
“Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”.
Tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ
khẳng định tầm quan trọng của tự phê bình, phê bình, của đấu tranh đối với đoàn
kết, thống nhất trong mỗi tổ chức, mỗi người nói chung, phải luôn đề cao ý thức
phê bình, ý thức đấu tranh để xây dựng, củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong
mỗi cơ quan, đơn vị, ngành mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc đấu tranh,
phê bình và tự phê bình chính là quy luật, động lực của sự phát triển. Đấu
tranh, phê bình phải thật thà, trung thực, không lợi dụng phê bình để trù dập lẫn
nhau. Đấu tranh, phê bình để đi đến thống nhất, đoàn kết hơn, cùng nhau phát
triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để vững bước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lời dạy “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê
bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước"
vẫn giữ nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo mà còn là yêu cầu đòi hỏi
các tổ chức đảng, đoàn thể cách mạng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ
gìn con ngươi của mắt mình, phải tích cực đấu tranh, tự phê bình và phê bình, tự
phê bình và phê bình có tình thân ái, phải đúng người, đúng việc, phải thật thà
trung thực để đi đến đoàn kết và phát triển ngày càng tốt hơn. Trên cơ sở chấp
hành nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình để đi đến đoàn kết, thống nhất;
tránh lợi dụng đấu tranh, phê bình và tự phê bình để chia rẽ đoàn kết nội bộ,
trù dập lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến uy tín, nhân phẩm của đồng chí, đồng đội./.
QUÂN ĐỘI - TRƯỜNG HỌC LỚN CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
“Quân đội là trường học lớn của thanh niên Việt Nam” là một luận điểm được
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều nhà lãnh đạo cấp cao của
Đảng khẳng định nhiều lần.
Quân đội là trường học để bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa; giáo dục cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng lúc ở trong Quân đội thì luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người quân nhân, khi phục viên, chuyển ngành thì tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ mới, tích cực xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trải qua hơn 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta đã
luôn đồng hành cùng dân tộc để làm nên những chiến công như huyền thoại. Quân đội
đã hoàn thành xuất sắc vai trò nòng cốt trong cuộc chiến tranh nhân dân, đánh bại
hai đội quân viễn chinh xâm lược hùng mạnh bậc nhất thế giới. Cũng trong suốt
76 năm qua, cùng với sự lớn mạnh, trưởng thành của Quân đội, hàng triệu thanh
niên Việt Nam cũng không ngừng trưởng thành về mọi mặt, góp phần to lớn vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng
lâu dài, gian khổ, trải nghiệm trong môi trường quân ngũ, hàng triệu thanh niên
Việt Nam đã được tôi luyện, thấm nhuần bản chất quân nhân cách mạng, khẳng định
vững chắc luận điểm Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là “trường học lớn” của lớp
lớp thanh niên Việt Nam.
Trong thời bình, sống trong môi trường quân ngũ là cơ hội để thanh niên học
tập, rèn luyện và trưởng thành. Sức khỏe cường tráng, phong cách chững chạc, nhận
thức trưởng thành, nếp sống kỷ luật nghiêm minh, nghiệp vụ quân sự vững vàng,
giao tiếp, ứng xử có văn hóa… Đó là những phẩm chất mà mỗi quân nhân được hình
thành sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Điều này lý giải tại sao trong thanh
niên quân đội thường xuyên có một bộ phận ưu tú phấn đấu trở thành đảng viên,
thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, nhân viên chuyên môn kỹ thuật phục vụ
lâu dài trong Quân đội. Với các chiến sĩ nghĩa vụ xuất ngũ, những phẩm chất cơ
bản mà họ có được trong thời gian tại ngũ là tiền đề quan trọng để thanh niên lập
thân lập nghiệp trên con đường dài của sự nghiệp xây dựng quê hương, đất nước.
Đặc biệt, trong sự trưởng thành về nhận thức, có thể xem sự trưởng thành
trong nhận thức chính trị của thanh niên sau khi trải qua môi trường quân đội
là yếu tố quan trọng nhất. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đời
sống kinh tế xã hội đất nước, quân đội cũng đã được quan tâm đầu tư phát triển
về mọi mặt. Việc được giáo dục chính trị một cách bài bản, phù hợp với trình độ
của từng đối tượng đã giúp thanh niên có thế giới quan, phương pháp luận rõ
ràng, khoa học để nhận diện những vấn đề chính trị phức tạp đang diễn ra trong
nước cũng như quốc tế hiện nay. Trước những hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch-phản động, thanh niên quân đội còn được trang bị những kiến thức toàn
diện để có sự “đề kháng về chính trị”, “miễn nhiễm” trước mọi luận điệu chống
phá, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Để Quân đội luôn xứng đáng là “trường học lớn”, trước hết, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp trong quân đội cần thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, chiến sĩ. Cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp trong quân đội cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, giáo dục chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, giáo dục truyền thống dân tộc, quân đội và đơn vị…
Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động trong đơn vị để bồi dưỡng kỹ năng sống,
văn hóa ứng xử, thị hiếu, thẩm mỹ cho đoàn viên, thanh niên. Lãnh đạo, chỉ huy
các cấp cần quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa cho quân nhân học tập nâng cao
trình độ mọi mặt, trong đó có điều kiện học tập nâng cao kiến thức văn hóa. Tiếp
tục tăng cường các hoạt động quân sự, nâng cao chất lượng huấn luyện, rèn luyện
sức khỏe, tăng cường sức chịu đựng, sự dẻo dai cho thanh niên trong các điều kiện
thời tiết khắc nghiệt, rèn luyện ý chí, nghị lực cho thanh niên. Đặc biệt cần
nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật trong các đơn vị quân
đội. Thông qua các hoạt động đó để giáo dục bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống,
phương pháp tác phong, ý thức tổ chức kỷ luật cho thanh niên. Bên cạnh đó, lãnh
đạo, chỉ huy các đơn vị cần coi trọng đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên,
chú trọng bồi dưỡng những quân nhân ưu tú, tạo điều kiện rèn luyện, thử thách để
trở thành đảng viên.
Cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong các đơn vị quân đội cũng cần quan
tâm chăm lo hơn nữa đến đời sống vật chất, tinh thần cho thanh niên trong Quân
đội. Chú trọng đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa trong các đơn vị quân đội,
để thanh niên cảm nhận rõ ràng “đơn vị là nhà, cán bộ, chiến sĩ đều là anh em”,
giúp thanh niên yên tâm học tập, công tác, huấn luyện. Đồng thời, qua đó cũng
khuyến khích và động viên thanh niên ngoài Quân đội yên tâm nhập ngũ.
Công tác đoàn và phong trào thanh niên trong Quân đội có vị trí, vai trò
rất quan trọng trong việc giáo dục, rèn luyện bộ đội. Để tổ chức Đoàn hoàn
thành vai trò của mình, điều quyết định là cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị
viên các cấp phải có sự quan tâm xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh. Các tổ chức
đoàn trong quân đội cũng cần đổi mới nội dung, hình thức hoạt động để thu hút
đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia như các hoạt động diễn đàn thanh niên, tọa
đàm… gắn với việc đẩy mạnh các phong trào thi đua trong Quân đội. Đồng thời,
lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác
dân vận, tạo điều kiện hơn nữa cho tổ chức đoàn ở các đơn vị giao lưu, kết
nghĩa với các tổ chức đoàn nơi đơn vị đóng quân.
Thông qua các hoạt động giao lưu, phối hợp, kết nghĩa giữa các tổ chức
Đoàn ở các địa phương để quân nhân hiểu hơn về cuộc sống, có tình cảm gắn bó mật
thiết với nhân dân, kính trọng nhân dân, tham gia vào những phong trào như
“Thanh niên quân đội chung tay xây dựng nông thôn mới”, làm được nhiều việc có
ý nghĩa cho xã hội; để thanh niên quân đội thực sự “từ nhân dân mà ra, vì nhân
dân mà phấn đấu, trưởng thành” ./.
Cương quyết, kịp thời nhưng phải hết sức bình tĩnh
Ngày 27/1, tại TP. Chí Linh (Hải Dương), sân bay Vân Đồn (Quảng Ninh) đã
phát hiện các ca nhiễm lây nhiễm SARS-CoV-2 nguồn gốc từ nước Anh, có tốc độ
lây lan rất nhanh. Ngay lập tức, các biện pháp phòng chống dịch mạnh mẽ nhất đã
được triển khai. Dù đang tham dự Đại hội Đảng lần thứ XIII, nhưng chiều 28/1,
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp khẩn của Thường trực Chính phủ với
Ban Chỉ đạo. Thủ tướng nhấn mạnh: Chúng ta đã phản ứng cương quyết, kịp thời,
thái độ dứt khoát, mạnh mẽ hơn; cần khoanh vùng, cách ly truy vết thần tốc trên
diện rộng nhưng cũng phải hết sức bình tĩnh; tiếp tục thực hiện biện pháp hành
chính mạnh mẽ... “không để lãng phí một giờ, một phút nào”.
Ngay sau đó, Thủ tướng đã ký ban hành Chỉ thị 05/CT-TTg để Hải Dương, Quảng
Ninh, nhất là các tỉnh, địa phương khác thực hiện phòng chống dịch trong điều
kiện mới, trên tinh thần kiên quyết giữ vững thành quả chống dịch, khoanh vùng,
dập dịch nhanh nhất để giữ cho cuộc sống của nhân dân trong trạng thái bình thường
mới một cách bình thường nhất có thể.
Trong cuộc họp ngay sau khi kết thúc ngày làm việc thứ 5 của Đại hội Đảng
lần thứ XIII tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình về công tác phòng chống
COVID-19, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu nhanh chóng dập dịch trước Tết, khoanh
gọn các ổ dịch là nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay của cả hệ thống chính trị.
Chúng ta đạt được một số kết quả bước đầu nhưng các cấp, các ngành không được
chủ quan và cả hệ thống phải vào cuộc đồng bộ, quyết liệt, trong đó có việc tiếp
tục cụ thể hóa Chỉ thị 05; đẩy mạnh xét nghiệm trên diện rộng, truy vết và thực
hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch.
Thủ tướng đồng ý kích hoạt hệ thống bệnh viện dã chiến, đào tạo tập huấn
lại cho các nhân viên y tế; đảm bảo năng lực cho hệ thống y tế để điều trị cả bệnh
nhân COVID-19 và những bệnh nhân khác.
Những địa phương có ca nhiễm mới trong cộng đồng cần thực hiện giãn cách
xã hội đối với những khu vực có nguy cơ cao, cần khoanh vùng hợp lý, chặt chẽ
nhưng cũng không nên làm quá rộng vì có thể sẽ khiến các hoạt động kinh tế - xã
hội trên địa bàn đình trệ nhưng cũng không làm quá hẹp để lây nhiễm có thể lan
ra. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kép nhưng phải ưu tiên bảo vệ sức khỏe nhân
dân.
Chúng ta phải thực hiện mọi biện pháp cần thiết để an lòng dân cả vùng dịch
và vùng không có dịch; phòng dịch quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả nhưng vẫn phải
bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là lo Tết cho người dân, cho nên vấn đề cung ứng
hàng hóa cho vùng dịch cũng như bảo đảm cho nhân dân đón Tết an toàn, tươi vui
là yêu cầu đặt ra đối với các cấp, địa phương.
Với sự chi viện thần tốc ngay từ trưa 27/1 của các đơn vị trực thuộc Bộ Y
tế, sau đêm 27 đến sáng 28/1, các lực lượng chức năng đã khoang vùng, xác định
các đối tượng lấy mẫu. Xác định đây là biến chủng virus, với tốc độ lây lan
nhanh nên mức độ khoanh vùng, truy vết và lấy mẫu được tiến hành rộng hơn, mạnh
hơn. Bên cạnh đó, năng lực lấy mẫu, xét nghiệm của Hải Dương đã tăng lên nhanh
chóng, đáp ứng được yêu cầu xét nghiệm, tầm soát diện rộng tại các khu vực cách
ly, phong tỏa, đồng thời thực hiện được ngay các biện pháp khanh vùng, truy vết,
cách ly khi xuất hiện những ổ dịch mới ở Cẩm Giàng, Kinh Môn, TP. Hải Dương.
So sánh ổ dịch tại Hải Dương (tháng 1/2021) và Đà Nẵng (tháng 7/2020), Bộ
Y tế cho biết ở Hải Dương, sau 3 ngày, chúng ta đã đuổi kịp dịch kể từ khi phát
hiện ca bệnh đầu tiên (Đà Nẵng là 11 ngày), dịch bệnh cơ bản được khống chế, kiểm
soát sau 8 ngày (Đà Nẵng là 23 ngày). Ổ dịch ở Hải Dương đã diễn ra trong 30
ngày với 645 ca mắc COVID-19, liên quan đến 13 tỉnh, thành phố; thực hiện xét
nghiệm 340.217 mẫu; truy vết hơn 15.000 ca F1. Tại Đà Nẵng, sau 36 ngày, địa
phương này không có thêm ca mắc mới trong cộng đồng, ghi nhận 389 ca mắc
COVID-19, liên quan đến 15 tỉnh, thành phố; xét nghiệm 384.613 mẫu; truy vết
hơn 11.000 ca F1.
Tuy nhiên, dịch bệnh ở Hải Dương xảy ra tại những cụm công nghiệp có số
lượng công nhân rất lớn. Biến chủng virus SARS-CoV-2 tại Hải Dương (biến thể
Anh B.1.1.7) có khả năng lây lan nhanh hơn virus gây dịch bệnh tại Đà Nẵng (biến
thể châu Âu D614G).
Sự chi viện kịp thời của Trung ương cho những địa phương còn nhiều khó
khăn như Gia Lai, hay những cuộc họp trực tuyến chỉ 30 phút đến 1 tiếng của Ban
Chỉ đạo với riêng từng địa phương như Quảng Ninh, Hải Dương, TPHCM, Gia Lai để
kịp thời xử lý ngay vướng mắc từ địa phương, chúng ta đã nhanh chóng dệt dày
thêm những tấm lưới tầm soát diện rộng, truy vết sát sao, đuổi kịp tốc độ lây
lan của virus. Vì vậy sau khi phát hiện một số ca nhiễm trong cộng đồng, hầu hết
các ca nhiễm ghi nhận trong nửa cuối tháng 2/2021 đều đã được cách ly, hoặc ở
trong khu phong tỏa.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 1/2021, ngày 2/2, Thủ tướng yêu cầu
sớm đưa vaccine đến người dân và tiếp tục thực hiện mục tiêu kép, chuẩn bị cho
người dân đón tết an toàn.
Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 1/2021, ngày 2/2, bên cạnh yêu cầu
phải tiếp tục quyết liệt phòng chống, dập dịch COVID-19, không được chủ quan,
có biện pháp mạnh mẽ, kịp thời, đi trước thời gian nhưng không được để hoảng loạn,
Thủ tướng đã yêu cầu xem xét sớm đưa vaccine tới người dân ngay trong quý
I/2021 này một cách phù hợp với điều kiện Việt Nam, đồng thời tiếp tục thực hiện
mục tiêu kép, không để vì chống dịch mà ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Chiều 9/2 (chiều 28 Tết), Thủ tướng đã đến thăm hỏi, động viên ngành y tế,
ngành đi đầu trên mặt trận chống COVID-19. Ngành y tế đã phát huy truyền thống
đoàn kết, sáng tạo, không ngại gian khổ, trụ vững tại nhiều điểm nóng, “vì thế,
chúng ta đã khống chế các ổ dịch ở nhiều đợt khác nhau”. Biểu dương thành tích
lớn lao, quyết tâm, ý chí quyết liệt của toàn bộ chiến sĩ áo trắng trên mặt trận
bảo vệ sức khỏe nhân dân, Thủ tướng đề nghị “toàn ngành phải cảnh giác cao hơn
các ngành, lực lượng khác”, phải sẵn sàng cho mọi tình huống…
Trong những ngày nhân dân cả nước đón Tết Nguyên đán Tân Sửu, các cuộc họp
của Ban Chỉ đạo dành nhiều thời gian để thảo luận về giải tỏa khó khăn trong
lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất trở lại cũng như đẩy
nhanh tiến độ đàm phán hoặc mua vaccine từ nước ngoài cùng với tiếp tục thử
nghiệm vaccine trong nước.
Tại cuộc họp Thường trực Chính phủ với Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch
COVID-19 vào chiều 15/2 (mùng 4 Tết), Thủ tướng đánh giá cao tinh thần quyết
tâm, nỗ lực của các bộ, ngành, đặc biệt là ngành y tế, các địa phương, nhất là
Hà Nội, TPHCM, Hải Dương, Quảng Ninh, Gia Lai… Nhấn mạnh việc nhập khẩu vaccine
phòng COVID-19 là một nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên của Chính phủ và trong tháng 2
phải có vaccine, Thủ tướng cũng giao Bộ Y tế nghiên cứu đề xuất các cách tiếp cận
chống dịch trước tình hình mới, chuẩn bị sẵn sàng cách ly lớn khi tình huống xấu
xảy ra…
Trong ngày làm việc đầu tiên sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021,
17/2, Thủ tướng cũng nhấn mạnh cuộc sống vẫn phát triển, người dân cần thu nhập,
do đó xử lý các vấn đề vướng mắc phải trên tinh thần bảo vệ sức khỏe nhân dân
nhưng cần đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, tiếp tục thực hiện mục tiêu kép.
Một tuần sau, ngày 24/2, khi chủ trì cuộc họp của Thường trực Chính phủ với
Ban Chỉ đạo, Thủ tướng một lần nữa nhấn mạnh "không ngăn sông cấm chợ".
Chủ tịch UBND các tỉnh, nhất là các tỉnh đang có dịch có biện pháp cụ thể để kiểm
soát dịch, đồng thời đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc
gia, Bộ Y tế không can thiệp sâu vào những vấn đề cụ thể của địa phương, giao
quyền cho địa phương ban hành các biện pháp cụ thể ở địa phương mình như phong
tỏa, thực hiện các Chỉ thị 15, 16… tùy tình hình địa phương và kịp thời giải tỏa
khi tình hình đã ổn định.
Thủ tướng nhất trí cho rằng, các địa phương, nhất là khu vực có cảng như
Hải Phòng phải bảo đảm lưu thông hàng hóa bình thường, biện pháp thông thoáng,
chủ động phòng chống dịch nhưng không ngăn sông cấm chợ và yêu cầu phải có ngay
một quy chế giữa 3 bộ để có thể thực hiện chủ trương lưu thông hàng hóa bình
thường, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Tinh thần, chỉ đạo của người đứng đầu Chính phủ đã được các bộ ngành
Trung ương, đặc biệt là các địa phương tích cực, khẩn trương, quyết liệt triển
khai thực hiện.
Trong những ngày cuối tháng 2/2021, đã xuất hiện liên tiếp tin vui khi
nhiều địa phương dỡ bỏ hầu hết các khu phong tỏa, những ca nhiễm mới ghi nhận đều
là những trường hợp được cách ly từ trước, các hoạt động sản xuất, kinh doanh
và đời sống của nhân dân dần dần trở lại bình thường trong điều kiện phòng chống
dịch bệnh nghiêm ngặt.
Ngày 26/2, Học viện Quân y bắt đầu tiêm thử nghiệm giai đoạn 2 đối với
vaccine Nanocovax của Việt Nam.
Cùng với đó, những liều vaccine ngừa COVID-19 nhập khẩu đầu tiên đã về đến
Việt Nam, trong khi một vaccine của Việt Nam (vaccine Nanocovax) đã bước vào
giai đoạn thử nghiệm thứ hai, một vaccine khác (vaccine Covivac) chuẩn bị thử
nghiệm giai đoạn 1 vào đầu tháng 3… Một lần nữa, nhiều bạn bè, tổ chức quốc tế
bày tỏ sự ngạc nhiên, vui mừng và đánh giá cao kết quả dập dịch của Việt Nam, một
đất nước mà với dân số đông, đường biên giới dài, nền kinh tế mở và có thu nhập
trung bình thấp.
Những bài học quý báu rút ra từ đợt chống dịch 1 tháng qua cho thấy chúng
ta vẫn phải tiếp tục cảnh giác vì không ai có thể chắc chắn ở Việt Nam không có
mầm bệnh, thậm chí là ổ dịch tiềm tàng trong cộng đồng. Chúng ta cảnh giác
nhưng không run sợ vì đã quen với “kẻ địch COVID-19”, dù có biến thể nào đi
chăng nữa và chúng ta sẽ chiến thắng nếu kiên trì chiến lược chống dịch từ đầu
với sự ủng hộ của toàn thể nhân dân./.
Cha mẹ cần chuẩn bị gì khi trẻ quay lại trường học?
Ngày 26/02, UBND TP Hà Nội đã đồng ý đề xuất của liên sở Giáo Dục và Đào Tạo, sở Y tế về việc quyết định cho hơn 2 triệu học sinh từ mầm non đến THPT ở Hà Nội đi học trở lại. Vậy bố mẹ và các gia đình cần làm gì cho trẻ, đặc biệt là học sinh mầm non, tiểu học có một mùa tựu trường an toàn?
Ngày đầu tháng 3, không ca mắc mới
Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19 sáng 1/3 cho hay, 12 giờ qua, Việt Nam không ghi nhận thêm ca mắc mới, tổng số bệnh nhân ở nước ta vẫn là 2.448 người.
CẦN PHẢI THỂ HIỆN RÕ TÌNH YÊU TỔ QUỐC TRONG MỌI SUY NGHĨ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM HÔM NAY
Yêu Tổ
quốc thì sẽ cố gắng học tập để phục vụ Tổ quốc, cố gắng lao động để xây dựng Tổ
quốc, cố gắng bảo vệ môi trường, giữ gìn từng tấc đất, mét biển của Tổ quốc.
Yêu Tổ quốc chính là tình cảm thiêng liêng, lớn lao, thúc đẩy thanh niên phấn
đấu vì những lý tưởng cao đẹp, biết sống tốt cho mình và tốt cho đồng bào mình,
biết suy nghĩ cao hơn, xa hơn cho nhân loại. Tình yêu Tổ quốc giúp thanh niên
vượt lên trên những suy nghĩ vụn vặt tầm thường để suy nghĩ những cái lớn lao
ngoài bản thân mình.
Sẽ
có người cho rằng trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, thanh niên phải trở
thành những “công dân toàn cầu”, vậy thì khái niệm Tổ quốc sẽ mờ nhạt đi. Nhưng
tôi tin rằng càng hội nhập thì càng phải giữ gìn bản sắc dân tộc. Càng tiến xa
vào môi trường quốc tế, mình càng phải biết rõ mình là ai, từ đâu đến, có những
lợi thế và hạn chế gì để phân biệt, để tự hào, để đánh dấu bản sắc của mình
giữa một thế giới sẵn sàng nuốt chửng những ai không có bản sắc riêng. Tổ quốc
là giá trị bất biến. Thanh niên ngày nay cần phải trang bị cho mình nhiều phẩm
chất tốt đẹp để sống có ích, có ý nghĩa, mà trong đó và trước hết phải biết yêu
chính Tổ quốc mình./.
TĂNG CƯỜNG KHẮC PHỤC SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Hiện nay, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đang là vấn đề cấp bách mang tính thời sự nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, giúp Đảng không ngừng củng cố niềm tin với quần chúng nhân dân, với đội ngũ cán bộ, đảng viên hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công tạo dựng, vun trồng: Đảng ta là một đảng cầm quyền, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Những
thắng lợi vĩ đại đó là thành quả, công sức của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của
đội ngũ cán bộ, đảng viên và những người con ưu tú của dân tộc. Tuy nhiên, sự
vĩ đại đó đã và đang bị ảnh hưởng, bởi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Trung
ương 4 khoá XII của Đảng đã chĩ ra: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy
lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong
bộ máy nhà nước”.
Trong bối cảnh hội nhập mở cửa, phát triển nền kinh tế
tri thức cùng với những âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, thì vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp
đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Cần có đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm
chất, năng lực thực sự đại diện cho trí tuệ, lương tâm, danh dự đứng mũi, chịu
sào trước những nhiệm vụ, tình thế mới đặt ra. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban
Chấp hành Trung ương khoá XII, đã chỉ ra những biểu hiện của sự suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đó là những
vấn đề rất cơ bản, căn cốt được đúc rút từ chính thực tiễn hoạt động của đội ngũ
cán bộ, đảng viên, từ những biểu hiện trong nội bộ bản thân của mỗi một con
người…
Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, tập thể lên trên lợi ích cá nhân, không tư
túi, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, có như vậy, mới từng bước khắc phục được
những biểu hiện của việc suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Có thể coi đây là bước đột phá chủ yếu hiện nay nhằm làm trong sạch đội ngũ cán
bộ, đảng viên. Không thể mong chờ có đội ngũ cán bộ tốt, nếu không có
quan điểm và phương pháp công tác đúng, không thực hiện tốt công tác cán bộ.
Phải thực hiện tốt việc “phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài”;
kiên quyết loại bỏ những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, năng lực yếu kém, suy
thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống…, coi đó là những vấn đề cấp bách, cần
thực hiện với những biện pháp tích cực và mạnh mẽ. Đồng thời, kiên quyết đấu
tranh loại bỏ đối với những cán bộ, đảng viên không có đủ uy tín trước tập thể,
trước nhân dân, không có năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc, cũng
như xa vào những vấn đề lợi ích nhóm, thu vén cá nhân, không quan tâm đến công
việc. Nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
chủ chốt, đảng viên có chức, có quyền trong tu dưỡng, rèn luyện; đồng thời gắn
trách nhiệm của họ với việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị và theo tinh thần:
Người đứng đầu và cấp uỷ cấp trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu
để tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
Khắc
phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sông trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là vấn đề lâu dài, phức tạp cần tiền hành
thường xuyên, thận trọng từng bước một. Do đó, cuộc đấu tranh này cần có sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm chính trị cao, như V.I.Lênin đã
nói : không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài chính những khuyết
điểm của bản thân của chúng ta. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn ý thức được mỗi hành
động, việc làm của mình, luôn đặt mình trong tổ chức, có những suy nghĩ, hành
động, việc làm đúng với quan điểm, đường lối của Đảng trước khi hành động
để không mắc phải những sai lầm đáng tiếc có thể xảy ra. Mỗi cán bộ, đảng viên
đều có trong tay mình thanh gươm bảo bối đó là hệ thống lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, vì vậy, cần có
bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi tình huống khó khăn, thử thách, luôn
kiên định với con đường, mục tiêu mà bản thân đã lựa chọn.
NÂNG CAO CẢNH GIÁC, KỊP THỜI NGĂN CHẶN ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG MẠNG INTERNET KÍCH ĐỘNG PHÁ HOẠI AN NINH TRẬT TỰ XÃ HỘI
Những năm qua, sự phát triển nhanh chóng của internet, mạng xã hội đã đem lại những lợi ích không thể phủ nhận; từng bước khẳng định vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người và đang thâm nhập vào cuộc sống của con người trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, internet, mạng xã hội cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước ta, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, lực lượng chống cộng cực đoan ở nước ngoài,… triệt để lợi dụng internet và các trang mạng xã hội để tán phát các tin, bài, videoclip có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước ta với sự gia tăng cả về cấp độ, mật độ, tần suất và lưu lượng tin, bài,… nhằm tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá ta một cách quyết liệt.
Nổi lên một số thủ đoạn mới đáng chú ý là: Thực hiện Live stream trực tiếp để kêu gọi cộng đồng mạng can thiệp vào nội bộ hoặc tham gia bình luận trái chiều trên mạng xã hội. Chúng phát videoclip trực tiếp về một sự việc do chúng dựng lên hoặc “lên sóng” trực tiếp trên mạng xã hội để tạo “diễn đàn” kêu gọi mọi người tham gia bình luận về một vấn đề “nóng” liên quan đến các cuộc biểu tình, khiếu kiện của tổ chức, cá nhân tại các cơ quan công quyền được dư luận xã hội quan tâm. Chủ đề chúng chọn thường là các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi thiết thực, bức xúc của người dân. Qua đó, chúng kêu gọi sự can thiệp của quốc tế và các tổ chức phản động vào Việt Nam, hoặc chúng lồng ghép quan điểm cá nhân, bình luận xuyên tạc, thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng, kêu gọi sự “phụ họa” của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tham gia bình luận, chia sẻ, xuyên tạc dựng chuyện Đảng ta đang bất ổn, Nhà nước bị chia rẽ cục bộ, một hình ảnh quân đội yếu đuối, công an tham nhũng, v.v.
Sử dụng “khoảng trống thông
tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng. Chúng lợi dụng việc báo chí chính thống trong nước
đưa tin một số vấn đề cụ thể nào đó, có thể bị chậm trễ, để phát tán ồ ạt, trực
tiếp những tin, bài xuyên tạc, bóp méo sự thật, thông qua những tiêu đề “giật
gân”, “câu khách” về vấn đề dư luận đang quan tâm, nhất là vấn đề liên quan đến
nội bộ Đảng, Nhà nước, tham nhũng, tiêu cực dưới các dạng như: thông tin sự
việc, đặt câu hỏi, bỏ ngỏ vấn đề để bạn đọc suy ngẫm, với những thông tin trộn
lẫn thật giả, gây tâm lý hoang mang, bán tín, bán nghi, v.v.
Làm mới thông tin cũ, bịa
đặt thông tin mới để chống phá. Thông tin cũ được
lựa chọn để “làm mới” và “thông tin mới được lựa chọn để bịa đặt” thường là
những đoạn videoclip hoặc hình ảnh có liên quan đến các vấn đề liên quan đến
dân chủ… do chúng tạo dựng nên hoặc các vụ việc đã được xử lý, giải quyết từ
lâu nhưng chúng đưa ra “làm mới”; hoặc những thông tin mới, mặc dù đã có kết
luận của các cơ quan chức năng nhưng chúng bịa đặt, xuyên tạc, bình luận một
chiều. Qua đó, chúng đánh vào tâm lý lo lắng, sợ hãi trong nhân dân qua đó, gây
dư luận trái chiều trong xã hội.
Để ngăn chặn, hạn chế tác động tiêu cực của những thủ
đoạn trên cần tăng cường các biện
pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân trước các thông tin xấu độc của các thế lực thù địch.
Tập trung tuyên truyền làm rõ thực chất đằng sau luận điệu của các thế lực thù
địch; đâu là thủ đoạn mới, tính chất nguy hại của nó là gì? để đấu tranh ngăn
chặn, hạn chế tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên
và nhân dân cần tiến hành các biện pháp gì, v.v. Qua đó, tạo sức “đề kháng”,
khả năng “tự miễn dịch” đối với các tổ chức và cá nhân trước các thông tin xấu
độc của các thế lực thù địch; trang bị cho họ những kỹ năng nhận biết và các
giải pháp cơ bản để phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn.
Phát huy vai trò của các cơ
quan chức năng cung cấp thông tin có định hướng rõ ràng. Các cơ quan tuyên giáo, thông tin truyền thông từ
Trung ương đến cơ sở cần phát huy tốt vai trò chủ trì, phối hợp với các ban,
ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương, các cơ quan thông tấn, báo chí trong
cung cấp, định hướng thông tin, bảo đảm thông tin một nguồn, một chiều, nhanh,
chính xác, kịp thời; khắc phục “khoảng trống” hoặc sự chậm trễ trong cung cấp
thông tin,… làm sao để thông tin chính thống của Đảng, Nhà nước thường xuyên, kịp
thời đến với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, luôn giữ vai trò chủ đạo, “dòng chủ
lưu” trong định hướng dư luận xã hội.
Phát huy sức mạnh tổng hợp
của mọi tổ chức, lực lượng trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch
trên không gian mạng. Cần xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ, phù hợp, phân rõ trách
nhiệm cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp; vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, người
đứng đầu, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp. Đồng thời, có chính sách động viên,
khích lệ phù hợp, bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị, dịch vụ, công cụ,
phương tiện phù hợp để phục vụ nhiệm vụ đấu tranh.
Kết hợp chặt chẽ các nội
dung, hình thức, biện pháp tổ chức đấu tranh phù hợp với thực tiễn tình hình. Cần kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh công khai trên
báo chí với đấu tranh trực diện trên internet, mạng xã hội; giữa đấu tranh ngăn
chặn sự tác động chuyển hóa từ bên ngoài với giữ vững sự ổn định từ bên trong
nội bộ; giữa đấu tranh chính trị với sử dụng các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ
để ngăn chặn, bóc gỡ, vô hiệu hóa một số trang mạng, blog, Facebook phản động,…
nhằm tạo ra một thế trận vững chắc trong tổ chức đấu tranh trên không gian mạng
hiện nay.
Thắng "giặc Covid-19" - minh chứng rõ tính ưu việt của Nhà nước Việt Nam
Đến thời điểm này, có thể coi cuộc chiến chống “giặc Covid-19” của Việt Nam đã giành được nhiều kết quả quan trọng, là một trong những nước có kết quả tốt nhất trong phòng, chống dịch Covid - 19. Ngay từ đầu, khi Covid-19 tràn qua biên giới, Việt Nam đã nhận biết và đánh giá đúng tác hại không thể lường trước nếu lơ là, mất cảnh giác, coi thường nó và đã xác định ngay chống Covid-19 như chống giặc.
Mà đã coi là giặc tức là phải đánh, phải tiêu diệt chứ
không chỉ chống. Vì vậy, ngay từ đầu, cả hệ thống chính trị ở Việt Nam đã vào
cuộc với quyết tâm cao nhất. Chiến thuật đánh Covid-19 tuân thủ nguyên tắc của
chiến dịch đánh giặc. Các hình thức chiến thuật vận dụng từ đánh nhỏ đến đánh
lớn, từ bao vây, phục kích, đánh chặn đến dốc toàn lực lượng đánh một trận tổng
lực để quyết giành thắng lợi và tiến tới thắng lợi hoàn toàn!
Nhiều nước trên thế giới đã ca ngợi thành công của Việt
Nam, một đất nước tiềm lực kinh tế còn hạn chế nhưng đã không chịu khuất phục
"giặc Covid-19", đã chiến đấu kiên cường và giành thắng lợi một cách
ngoạn mục. Ngay từ đầu, Việt Nam đã tiến hành cách ly người về từ ngoài biên
giới để đánh chặn Covid-19; cách phòng dịch sớm, chủ động phòng ngừa từ xa của
Việt Nam là cách ít tốn kém nhất và đem lại kết quả tốt nhất… Chính vì vậy,
thành công đáng nể nhất là Việt Nam đã bảo vệ được mạng sống người dân của mình
hiệu quả nhất. Cũng từ thành công của Việt Nam, truyền thông nhiều nước, các
chính trị gia, nhà kinh tế khẳng định Việt Nam sẽ là một trong số ít nước trên
thế giới kinh tế tăng trưởng dương trong năm 2020.
Vậy mà khi thế giới đang hết lời khâm phục Việt Nam thì
lại có những giọng điệu lạc lõng, những luận điệu xảo trá của những kẻ bất mãn
chế độ, của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm xuyên tạc, bôi đen,
bóp méo sự thật, muốn phủ nhận sạch trơn thành quả chống "giặc dịch"
của chúng ta. Rõ ràng những luận điệu ấy còn nguy hại hơn cả dịch. Trớ trêu
thay, trong số những người lên giọng phủ nhận ấy có người lại đang sống trên
chính đất nước mình. Những ngày cả đất nước gồng mình chống chọi với "giặc
Covid-19", những con người ấy cũng được chứng kiến và thụ hưởng thành quả
chống dịch, được cả guồng máy xã hội bảo vệ mạng sống…
Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, cả
hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương, các tổ chức chính trị, xã hội…
đã sát cánh cùng nhau chống "giặc dịch". Trên tuyến đầu, các y sĩ,
bác sĩ dốc sức, dốc lòng cứu người bệnh; quân đội, công an trở thành lực lượng
nòng cốt giúp đồng bào trong nước, ngoài nước trở về, nhường cơm sẻ áo, nhường
nhà, nhường doanh trại cho người cách ly… Trong đại dịch, không chỉ xuất hiện
nhiều nhà từ thiện cùng góp công, góp sức, góp tiền của cho cuộc chiến chống
dịch mà từ trong nhân dân cũng xuất hiện nhiều tấm gương, tấm lòng hướng về các
y sĩ, bác sĩ nơi tuyến đầu chống dịch thật sự xúc động. Người có tiền giúp
tiền, người có gạo giúp gạo, có người chỉ mớ rau, củ, quả cũng đem đến giúp đỡ
người ở tuyến đầu… Những tấm lòng thơm thảo của đồng bào, đồng chí như tiếp
thêm năng lượng cho các y sĩ, bác sĩ đang không quản ngại hy sinh.
Với tinh thần coi sức khỏe và tính mạng của con người là
trên hết, trong hiểm nguy của đại dịch, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ
là không để ai bị bỏ lại phía sau, không ai bị bỏ ngoài xã hội. Sự nỗ lực không
biết mệt mỏi của ngành y tế, quân đội, công an và các ban, bộ, ngành Trung
ương, sự vào cuộc kịp thời của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cộng đồng doanh
nghiệp… làm tăng thêm niềm tin trong nhân dân về thành công của cuộc chiến
chống dịch. Chính từ niềm tin ấy, mọi quyết sách của Đảng, Nhà nước, Chính phủ
được nhân dân đồng lòng, đồng sức ủng hộ.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ LÀ ĐIỂM TỰA TINH THẦN VỮNG CHẮC, LÀ ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG CHO TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN TA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NGÀY NAY
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá được cả thế giới công nhận và ngưỡng mộ. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở Việt Nam. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói và việc làm của Người trong quan hệ với đồng chí, đồng bào, với bạn bè quốc tế... trên các cương vị khác nhau khi là nhà báo, lúc là nhà văn, nhà thơ, hay trên cương vị Chủ tịch nước, ở Người đều toả ra ánh hào quang văn hoá, đó là kết tinh của những giá trị văn hoá tốt đẹp nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Mang trong mình truyền
thống văn hoá Phương Đông, lại được tiếp thu những tinh hoa văn hoá
của nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt là ánh sáng khoa học của chủ nghĩa
Mác- Lênin, với phẩm chất thiên tài, Hồ Chí Minh đưa ra cách hiểu văn hoá rất
rộng, rất sâu sắc và khái quát cao, song cũng rất cụ thể và dễ hiểu, dễ đi vào
lòng người. Mặc dù đã có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về văn hoá khác nhau,
nhưng Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá rất gần với cách hiểu mà
40 năm sau (1982) UNESCO mới nêu lên. Trong mục “Đọc sách” ở phần cuối tập
“Nhật ký trong tù” (1942-1943), Người đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Chính văn hoá
được hiểu theo nghĩa như vậy mới có thể được đóng vai trò “là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển
kinh tế- xã hội” như Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định.
Quan điểm trên của Hồ Chí
Minh đã khái quát được nội dung đầy đủ nhất, rộng nhất, mang đầy đủ nội hàm của
phạm trù văn hoá. Theo đó, văn hoá được hiểu là toàn bộ sáng tạo những giá trị
vật chất và những giá trị tinh thần của con người trong quá trình tồn tại sinh
sống và phát triển. Nguồn gốc và động lực sâu xa của văn hoá chính là nhu cầu
của con người, khác với loài vật, nhu cầu của con người (bao gồm cả nhu cầu vật
chất và nhu cầu tinh thần) luôn luôn thay đổi, con người không bao giờ bằng
lòng với những cái mà tự nhiên ban tặng và những gì đã có. Chính điều đó,
đã thúc đẩy con người hoạt động và sáng tạo, cải tạo tự nhiên và xã
hội, tạo ra không gian và điều kiện sinh tồn cả vật chất lẫn tinh thần phục vụ
ngày càng tốt hơn nhu cầu cho mình. Đó cũng chính là quá trình sáng tạo văn hoá
của con người. Theo nghĩa đó, ở đâu có con người và hoạt động của con người thì
ở đó có văn hoá. Văn hoá là sự phát huy và hiện thực hoá các năng lực bản chất
của con người. Con người là chủ thể sáng tạo của văn hoá đồng thời văn hoá là
phương thức sinh tồn, là môi trường sống của con người. Con người không thể tồn
tại và phát triển với tính cách là con người được nếu tách khỏi môi trường văn
hoá và thực tế lịch sử phát triển của con người luôn gắn liền với lịch sử phát
triển của văn hoá. Tư tưởng đó cho chúng ta thấy rằng tồn tại xã hội bao giờ
cũng quyết định ý thức xã hội, yếu tố vật chất quyết định yếu tố tinh thần,
theo đúng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Mặt khác, theo quan niệm
của Hồ Chí Minh về văn hoá, thì văn hoá bao gồm hai lĩnh vực cơ bản đó là, văn
hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Bên cạnh những sản phẩm tinh thần như: ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật...
văn hoá còn bao hàm các sản phẩm vật chất phục vụ cho đời sống con người như
các công cụ, các phương tiện đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, giao
tiếp...Tuy nhiên, văn hoá vật chất thực ra là vật thể hoá các giá trị tinh
thần. Mỗi sản phẩm vật chất đều thể hiện sự tài hoa, lý tưởng thẩm mỹ của con
người, của những chủ thể sáng tạo ra chúng.
Như vậy, có thể nói Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan niệm hết sức khoa học và dễ hiểu về văn hoá. Quan niệm đó
không những vạch ra những dấu hiệu đặc trưng của văn hoá mà còn bao quát được
toàn bộ các hoạt động và các hiện tượng văn hoá trong đời sống con người. Vì
vậy, tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hoá hiện nay vẫn còn nguyên giá trị trong
việc nhận thức các hiện tượng văn hoá của đời sống xã hội.
Ngày nay, trong sự nghiệp
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thì tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá vẫn là điểm tựa tinh thần vững chắc, là ánh sáng soi
đường cho toàn Đảng, toàn dân ta đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
Đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội hiện nay
Phát biểu tại Đại hội đại
biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 - 2025), Tổng Bí thư, Chủ tịch
nước Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: “tuyệt đối không để những quan điểm sai trái
xuất hiện, tồn tại trong Quân đội”. Để yêu cầu đó trở thành hiện thực, phải kiên quyết
xóa bỏ mọi nguyên nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình
thay đổi tư duy, nhận thức về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của người
cán bộ, đảng viên. Họ hoài nghi, phủ định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và dần đánh mất các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản mà bản
thân đã nỗ lực phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện nhiều năm mới có được; dễ dàng chấp
nhận tư tưởng tư bản chủ nghĩa, tin vào các luận điểm sai trái, phản động. Tiếp
đến, họ không những không chấp hành mà còn thực hiện sai chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thậm chí trở thành phần tử chống đối,
sẵn sàng ngả theo các thế lực thù địch khi được chúng ve vãn, tung hô.
Như vậy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có
cả nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, trong đó bên trong mang tính
quyết định. Những biểu hiện này có thể xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, với mọi cá nhân, tổ chức và trong Quân đội cũng không phải là ngoại lệ.
Chính sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên đã ươm mầm cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chỉ chờ có sự tác động
đúng lúc từ bên ngoài sẽ nảy chồi, phát triển. Vì vậy, muốn phòng, chống triệt
để biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cần phải loại bỏ nguyên nhân bên
trong và giảm thiểu sự tác động của nguyên nhân bên ngoài. Chính vì vậy, đòi
hỏi phảo tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ để tăng cường “sức đề kháng” cho
quân đội, bảo đảm quân đội ta luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu
tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; có ý chí quyết
tâm cao, vượt qua gian khổ, hy sinh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng,
Nhà nước và Nhân dân giao phó.
CHUNG TAY PHÒNG CHỐNG COVID-19 CHỨ ĐỪNG XUYÊN TẠC
Trong khi cả đất nước nói chung, hệ thống chính quyền và nhân dân những tỉnh đang xảy ra dịch nói riêng đang tích cực, khẩn trương tiến hành các biện pháp phòng chống, khoanh vùng dẹp dịch Covid-19 thì lại xuất hiện một số con người lại “ăn không ngồi rồi” cho rằng chính quyền và người dân chậm chạp trong việc cách ly ổ dịch dẫn đến dịch bệnh lan rộng ra khắp nơi.
Những phát ngôn của những người này mang tính tự phát, không nắm
được tình hình tại những địa phương đang diễn ra như thế nào và không hiểu được
những nguyên tắc quan trọng công tác phòng chống dịch ra sao. Chính quyền và
các lực lượng tham gia chống dịch đang phải căng mình để truy vết những người
tiếp xúc với F0, ngăn ngừa dịch bệnh lây lân, đưa những người tiếp xúc gần đi
cách ly tập trung...
Những lực lượng tham gia trực tiếp trong phòng chống dịch bệnh
như bác sĩ, y tá, Quân đội, Công an phải trực 100%, phải xa gia đình để đảm bảo
lực lượng ứng trực và xử lý những tình huống đã và đang xảy ra. Ngoài ra, chính
quyền còn bận rộn hỗ trợ những người dân ở những địa phương đang có dịch vì
những sản phẩm nông nghiệp đã đến giai đoạn thu hoạch nhưng do bị giãn cách xã
hội, bị phong toả nên không thể tiêu thụ sản phẩm. Những hy sinh âm thầm của họ
nào ai thấu đâu.
Không thể hiểu được những con người đang suy nghĩ gì nữa. Trong
khi chính quyền và các lực lượng đang gồng mình để chống dịch, người dân nơi
xảy ra dịch bệnh đang gặp khó khăn, những con người đã không có lời động viên
cho đồng bào mình thì hãy đừng tỏ ra hiểu biết, đừng có xuyên tạc, phá hoại
cuộc sống của người dân nữa. Dịch COVID-19 lây lan trong cộng đồng, đồng thời
trở thành "điểm nóng" về tin giả trên mạng xã hội nhiều ngày nay. Vì
vậy, mong rằng mọi người khi tiếp cận những thông tin trên Internet cần phải
bình tĩnh và không đăng tải hoặc chia sẻ thông tin không đúng sự thật về tình
hình dịch Covid – 19.
LỤC LÂM THẢO KHẤU MÀ ĐÒI BÀN LUẬN VỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI VỚI DÂN CHỦ VÀ NHÂN QUYỀN
Gớm trước đây lúc Fây-búc chưa được hoạt động chính thức ở Việt Nam thì nào là Việt Nam độc tài, mất dân chủ nên sợ này sợ nọ... Khi người ta ban hành Luật An ninh mạng thì kêu là chủ yếu nhằm vào Fây-búc để kiểm soát quyền tự do thông tin, tự do ngôn luận... nào thì tung hê những nước cho Fây-búc hoạt động là hình mẫu của tự do, dân chủ, nhân quyền lung tùng xèng .
Hehe, đã bảo rồi, tự do và dân chủ đến mấy cũng phải có khuôn khổ, có chừng mực chứ lấy đâu ra cái thứ tự do, dân chủ kiểu thích làm gì thì làm, nói gì thì nói. Ở ngoài đời và trên mạng ảo đều thế, có phỏng? Cho nên lũ mang danh "hoạt động dân chủ" kia trước thì to mồm lắm, đến khi Fây-búc nó khóa mồm anh Trump cái rịp, rồi mới đây nó chặn họng cả nước Úc thì bọn kia không há mồm ra được chữ nào.
Dân chủ á? Tự do ngôn luận á? đố anh em "hoạt động dân chủ" mà trước đây đòi phải cho Fây-búc hoạt động rồi không kiểm duyệt nội dung ấy, như bọn Lân Thắng, Dũng Vova, Nguyễn Văn Đài... chẳng hạn - hehe, thử nói xem việc Fây-búc nó khóa mõm anh Trump với khóa mõm cả nước Úc là thứ dân chủ kiểu gì. Lêu lêu bọn há miệng mắc quai nhé nhé!
Mà mấy hôm nay cũng không thấy anh em nào tung hê thiên đường Hoa Kỳ nữa nhể? Hỡi ôi thiên đường tự do, hỡi ôi dân chủ, hỡi ôi giàu có phồn hoa, thịnh vượng... Chỉ mỗi đợt bầu cử tổng thống Mỹ vừa rồi và con COVID19 cộng thêm trận bão tuyết thôi đã phơi bày tất cả rồi đấy. Tất nhiên, tút sau sẽ chém tiếp chuyện đó. Hi hi
Mai Năm Mới (ST)
Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2021
Đảng có đứng ngoài cuộc trong cuộc chiến chống COVID-19
Chuyện ít ai lường trước được là trong thời điểm Đại hội Đảng lần thứ XIII diễn ra thì dịch Covid-19 lại bùng phát tại Quảng Ninh và Hải Dương.
Như chết đuối vớ được cọc, mấy anh chị ba que, "dân chủ cuội" đã nhanh chóng đăng đàn xuyên tạc về Đại hội Đảng và kích động hòng tạo sự hoang mang trong xã hội. Trang Việt Tân vội đăng bài "một cái tết hoang mang", với luận điệu bịp bợm và dị hợm rằng "Ở bên ngoài nhân dân thì đang hoang mang với tình hình dịch bệnh đang diễn biến nghiêm trọng, có nguy cơ đón một cái tết ‘’nhà ai ở nhà nấy’’, trong khi đó "trong khu vực đầu não Hà Nội đang nhóm họp, vẫn háo hức vì đại hội sắp thành công tốt đẹp, những tiếng vỗ tay rần trời cũng sẽ vang lên khi đảng vẫn vinh quang trên sự lầm than của hàng triệu dân đen đang lo lắng trước một cái tết nước mắt chan cơm". Đọc mấy câu trên mới hiểu, khi sự chống phá lên đến đỉnh điểm, bất chấp đúng sai thì những cái đầu "dân chủ" không có gì là không thể bóp méo và xuyên tạc được.
30 năm chấm dứt Chiến tranh Vùng Vịnh - Bão táp Sa mạc
Ngày 28/2/1991, Chiến tranh Vùng Vịnh với mật danh “Bão táp Sa mạc” do Mỹ
và quân đồng minh phát động tại Iraq đã kết thúc. Dù không kéo dài, đây vẫn là
cuộc chiến quy mô lớn nhất của Mỹ kể từ Chiến tranh Việt Nam.
Nguyên nhân chiến tranh
Mặc dù cuộc xung đột kéo dài nhiều năm giữa Iran – Iraq đã kết thúc theo
lệnh ngừng bắn do LHQ làm trung gian hồi tháng 8/1988, vào giữa thập niên 1990
hai quốc gia này vẫn chưa khởi động đàm phán về một hiệp ước hòa bình lâu dài.
Khi các ngoại trưởng gặp gỡ tại Geneva tháng 7 năm đó, triển vọng về hòa bình tại
khu vực Trung Đông bỗng dưng trở nên tươi sáng do có vẻ như nhà lãnh đạo Iraq
Saddam Hussein đã sẵn sàng chấm dứt cuộc xung đột và trả lại lãnh thổ đã chiếm
đóng.
Thế nhưng, hai tuần sau đó, ông Hussein có bài phát biểu buộc tội nước
láng giềng Kuwait hút trộm dầu thô từ mỏ dầu Ar-Rumaylah nằm dọc đường biên giới
chung. Ông khẳng định Kuwait và Saudi Arabia đã hủy khoản vay nước ngoài 30 tỷ
USD của Iraq, đồng thời cáo buộc họ âm mưu giữ giá dầu ở mức thấp nhằm gây khó
khăn cho các quốc gia xuất khẩu dầu sang phương Tây.
Theo trang History.com, lý giải cho việc ra lệnh quân đội tấn công Kuwait
tháng 8/1990, Tổng thống Iraq tuyên bố Kuwait là một nhà nước do thực dân
phương Tây dựng lên bên ngoài bờ biển Iraq. Trên thực tế, Kuwait đã được quốc tế
công nhận là một thực thể riêng biệt từ trước khi Iraq được Anh thành lập dưới
sự ủy quyền của Hội quốc liên sau Thế chiến thứ nhất.
Sau tuyên bố của ông Saddam Hussein, Iraq bắt đầu tập trung quân đội ở
biên giới giáp Kuwait. Nhận thấy tình thế "nước sôi lửa bỏng", Tổng
thống Ai Cập Hosni Mubarak lên tiếng kêu gọi đàm phán giữa Iraq và Kuwait nhằm
tránh sự can thiệp của Mỹ hay các cường quốc khác ngoài Vùng Vịnh. Thế nhưng,
ông Hussein đã cắt đứt đàm phán chỉ sau hai giờ.
Ngày 2/8/1990, Tổng thống Hussein ra lệnh quân đội tấn công nước láng giềng
Kuwait. Ông dự tính rằng các nước Arab sẽ ủng hộ quyết định của mình, đồng thời
không kêu gọi các lực lượng bên ngoài ngăn chặn cuộc chiến, song nó hóa ra là một
phép tính sai lầm. 2/3 trong số 21 thành viên của Liên đoàn Arab liền lên án
hành động gây hấn của Baghdad. Quốc vương Saudi Arabia và chính phủ lưu vong của
Kuwait đã nhờ cậy Mỹ cùng các nước đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO) giúp đỡ.
Tên gọi
Cuộc chiến tranh có nhiều tên gọi khác nhau. "Chiến tranh Vùng Vịnh"
hay "Chiến tranh vịnh Persic" là những thuật ngữ phổ biến nhất để chỉ
cuộc xung đột này ở các nước phương Tây. Ngoài ra, cuộc xung đột cũng được gọi
là "Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất", chiến dịch "Lá chắn Sa
mạc" (Desert Shield) và "Bão táp Sa mạc" (Desert Storm). Ở Anh,
các nhà sử học và chính giới gọi đây là Chiến dịch Granby. Tại Kuwait và đa số
các nước Arab gọi cuộc chiến là "Chiến tranh giải phóng Kuwait".
Trong khi người Iraq gọi cuộc chiến là Um M'aārak - Cuộc chiến của mọi cuộc chiến.
Mỹ và đồng minh ra tay
Tổng thống Mỹ George H.W. Bush và hàng loạt nước phương Tây ngay lập tức
chỉ trích cuộc xâm lăng của Iraq. Chính phủ Anh và Liên Xô cũ cũng vậy. Đáng
lưu ý, Kuwait chính là đối tác xuất khẩu dầu mỏ lớn của Mỹ.
Ngày 3/8/1990, LHQ yêu cầu Iraq lập tức rút quân. Ba ngày sau, Quốc vương
Fahd gặp Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Richard Cheney để nhờ hỗ trợ. Ngày 8/8, Chính
phủ Iraq chính thức sáp nhập Kuwait, gọi quốc gia này là “tỉnh thứ 19” của Iraq.
Cũng hôm đó, phi đội tiêm kích đầu tiên của Không quân Mỹ hạ cánh xuống Saudi
Arab nhằm gây dựng lực lượng cho chiến dịch chống Iraq. Những chiếc chiến đấu
cơ này được hộ tống bởi binh sĩ NATO, Ai Cập và một vài nước Arab khác, nhằm tạo
ra một liên quân đối phó với nguy cơ Iraq tấn công Saudi Arabia.
Tại Kuwait, Iraq tăng lực lượng chiếm đóng lên khoảng 300.000 binh sĩ.
Trong nỗ lực để lôi kéo sự ủng hộ từ thế giới Hồi giáo, nhà lãnh đạo Hussein
tuyên bố một cuộc thánh chiến chống lại liên quân. Ông chủ động liên kết đồng
minh với người Palestine bằng lời đề nghị sơ tán Kuwait đổi lại việc Israel rút
khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng. Khi những nỗ lực trên đều thất bại, Hussein
vội vàng ký kết một thỏa thuận hòa bình với Iran cũng như huy động toàn lực
quân đội.
Nhiều tuần trôi qua, các bên đều hiểu rõ rằng Tổng thống Hussein không hề
có ý định từ bỏ. Ngày 29/11/1990, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) ban
hành Nghị quyết 678 cho Tổng thống Iraq thời hạn 6 tuần lễ trước khi liên quân
do Mỹ dẫn đầu được phép sử dụng mọi phương tiện cần thiết để đẩy quân đội Iraq
khỏi Kuwait. Hạn chót để Baghdad hành động là ngày 15/1/1991.
Vào tháng 1 năm đó, quân số các lực lượng sẵn sàng giáp đấu với Iraq vào
khoảng 750.000 lính, trong đó có 540.000 lính Mỹ cùng binh sĩ 38 nước gồm Anh,
Pháp, Đức, Liên Xô, Nhật Bản, Ai Cập, Saudi Arabia và các quốc gia Arab khác…
Sau cùng, nhà lãnh đạo Hussein từ chối nhượng bộ. Chiến tranh Vùng Vịnh
leo thang ngày 17/1/1991 bằng một cuộc không kích khổng lồ, được biết đến dưới
tên gọi Chiến dịch Bão táp Sa mạc.
Sa mạc nổi bão
Nửa đêm 17/1/1991 ở Iraq cũng là lúc yêu cầu của LHQ hết hạn. Lầu Năm Góc
chuẩn bị khởi động chiến dịch tấn công buộc Iraq phải rút khỏi nước láng giềng
giàu dầu mỏ sau 5 tháng chiếm đóng.
Vào lúc 16h30 giờ bờ Đông nước Mỹ, những chiếc máy bay chiến đấu đầu tiên xuất kích từ các hàng không mẫu hạm của Mỹ và Anh ở ngoài khơi Vịnh Ba Tư lao vào không phận Iraq và oanh tạc các mục tiêu.
Và sau 17 giờ bay, 7 “pháo đài bay” B-52, cất cánh từ căn cứ không quân
Barkdale ở Los Angeles, đã đáp xuống Trung Đông vào ngày 16/1, mang theo tên lửa
hành trình dẫn đường bằng định vị vệ tinh đã dội bom các trụ sở chỉ huy, nhà
máy điện, cơ sở hậu cần và trạm điện thoại của Iraq.
Suốt đêm đó, các máy bay của liên minh quân sự do Mỹ dẫn đầu đã ném bom rải
thảm các mục tiêu ở trong và xung quanh Baghdad, trong đó có nhà máy vũ khí
cùng các mỏ dầu. Cùng lúc đó, thế giới theo dõi sự kiện trên qua truyền hình vệ
tinh trực tiếp. Vào lúc 19h00, chiến dịch mang mật danh Bão táp Sa mạc chính thức
được công bố tại Nhà Trắng.
Tướng Mỹ Norman Schwarzkopf đã chỉ huy liên quân gồm lực lượng của 40 quốc
gia. Chiến dịch này là dịp phương Tây phô diễn thế mạnh về công nghệ quân sự hiện
đại bao gồm máy bay ném bom tàng hình, tên lửa hành trình, bom thông minh dẫn
đường chính xác và thiết bị ném bom tầm nhiệt ban đêm.
Trong 6 tuần tiếp theo, liên quân mở cuộc không chiến quy mô khổng lồ nhắm
vào các cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự trọng yếu của Iraq, trong khi chỉ phải
đối mặt với sự kháng cự yếu ớt từ lực lượng phòng không của quốc gia Trung Đông
này. Máy bay chiến đấu Mỹ cùng liên quân đã xuất kích trên 18.000 lần, triển
khai trên 116.000 trận không chiến và thả 88.500 tấn bom. Các lực lượng mặt đất
của Iraq kháng cự rất yếu ớt và rơi vào tình trạng bất lực vào thời điểm đó.
Biện pháp trả đũa đáng quan tâm nhất của nhà lãnh đạo Hussein là tấn công
bằng tên lửa SCUD nhằm vào Israel và Saudi Arabia. Ông Hussein hy vọng rằng các
cuộc tấn công tên lửa sẽ kích động Israel tham gia vào vụ xung đột, do đó phân
tán sự ủng hộ của thế giới Arab vào chiến dịch của Mỹ. Tuy nhiên, theo yêu cầu
của Mỹ, Israel vẫn đứng ngoài cuộc chiến.
Bão táp Sa mạc cũng là lần đầu tiên hệ thống tên lửa MIM-104C Patriot của
Mỹ được đưa vào thực chiến, nhằm đánh chặn tên lửa SCUD do Iraq phóng vào
Israel. Sự kiện này chứng kiến sự “ra mắt” của các loại vũ khí tàng hình, tên lửa
dẫn đường chính xác và hỗ trợ không gian trên chiến trường. Ngoài ra, Chiến
tranh Vùng Vịnh cũng ghi dấu ấn với các khái niệm tấn công mới, chẳng hạn như
“chiến tranh song song” và “chiến tranh dựa trên hiệu ứng”.
Vào ngày 24/2, liên quân triển khai cuộc tấn công quy mô lớn trên bộ với
mật danh “Thanh kiếm Sa mạc”. Các lực lượng vũ trang được trang bị nghèo nàn của
Iraq nhanh chóng bị áp đảo. Kuwait được giải phóng trong vòng chưa đầy 100 tiếng
đồng hồ. Phần lớn các lực lượng của Iraq đã đầu hàng, tháo chạy hoặc bị tiêu diệt.
Ngày 27/2, đài phát thanh của Baghdad tuyên bố Iraq sẽ tuân theo nghị quyết của
LHQ.
Ngày 28/2, Tổng thống Bush tuyên bố ngừng bắn, kết thúc chiến dịch tấn
công của liên quân. Theo các điều khoản hòa bình mà ông Hussein chấp nhận sau
đó, Iraq sẽ công nhận chủ quyền của Kuwait và loại bỏ tất cả các loại vũ khí hủy
diệt hàng loạt (bao gồm vũ khí hạt nhân, sinh học và hóa học).
Theo tờ USA Today, Chiến tranh Vùng Vịnh là một trong những cuộc chiến tốn
kém nhất Mỹ từng tham gia. Trong thời gian 7 tháng, Washington đã tiêu 116,6 tỷ
USD và tổn thất 383 binh sĩ. Ước tính có khoảng 8.000 đến 10.000 lính Iraq đã
thiệt mạng, tương đương 1/2 lực lượng trên bộ, gấp nhiều lần so với con số trên
300 người của lực lượng liên quân.
Mặc dù Chiến tranh Vùng Vịnh được công nhận là chiến thắng quan trọng của
liên quân nhưng Kuwait và Iraq đã phải gánh chịu những thiệt hại to lớn về người
và của.
Hậu quả của Chiến tranh Vùng Vịnh
Ý định ban đầu của lãnh đạo các nước liên minh là thực hiện một cuộc chiến
tranh “có giới hạn” với chi phí tối thiểu nhưng trên thực tế hậu quả của cuộc
chiến tác động kéo dài trong nhiều năm, cả ở khu vực Vịnh Ba Tư và trên toàn thế
giới.
Ngay sau chiến tranh, lực lượng của Tổng thống Hussein theo đuổi cách tiếp
cận cứng rắn đối với các cuộc nổi dậy của người Kurd ở phía Bắc và người
Shi’ite ở phía Nam của Iraq. Liên minh do Mỹ đứng đầu đã không ủng hộ các cuộc
nổi dậy tại Iraq vì sợ rằng nhà nước Iraq sẽ bị giải thể nếu các lực lượng này
thành công.
Sau cuộc chiến này, Iraq ngày càng đơn độc hơn trong khu vực.
Trong những năm sau đó, máy bay của Mỹ và Anh tiếp tục tuần tra bầu trời
Iraq, đồng thời áp đặt khu vực cấm bay tại đây, trong khi chính quyền Baghdad
tìm mọi cách để từ chối thực thi các điều khoản hòa bình, đặc biệt cuộc thanh
sát vũ khí của LHQ. Điều này làm tái hiện chính sách thù địch vào năm 1998, sau
đó Iraq kiên quyết từ chối tiếp nhận các thanh sát viên vũ khí. Ngoài ra, lực
lượng Iraq thường xuyên đụng độ với các máy bay của Mỹ và Anh trong khu vực cấm
bay.
Năm 2002, Tổng thống George W. Bush (Bush con) đã bảo trợ cho một nghị
quyết của LHQ kêu gọi Iraq cho phép các thanh sát viên vũ khí quay trở lại nước
này. Các thanh sát viên của LHQ đã đến Iraq vào tháng 11 năm đó. Trong khi các
nước thành viên Hội đồng Bảo an vẫn còn bất đồng về mức độ tuân thủ của Iraq với
việc thanh sát thì Mỹ và Anh đã bắt đầu tập trung lực lượng ở biên giới Iraq.
Vào ngày 17/3/2003, Tổng thống Bush (không có sự chấp thuận của LHQ) đã đưa ra
một tối hậu thư yêu cầu Saddam Hussein từ chức và rời khỏi Iraq trong vòng 48
giờ, cũng như đe dọa tiến hành chiến tranh. Tổng thống Hussein từ chối và cuộc
Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ hai, thường được gọi là Chiến tranh Iraq, nổ ra 3
ngày sau đó.
Vào ngày 20/3/2003, cuộc chiến tranh thứ hai giữa Iraq và liên minh do Mỹ
dẫn đầu lại nổ ra, mục tiêu lần này của Mỹ là hạ bệ Tổng thống Saddam Hussein
khỏi quyền lực với cái cớ tìm và phá hủy vũ khí giết người hàng loạt của Iraq.
Nhà lãnh đạo Iraq bị một đơn vị quân đội Mỹ bắt vào ngày 13/12/2003 và bị hành
quyết vào ngày 30/12/2006. Sau này, không có bất kỳ vũ khí hủy diệt hàng loạt
nào được tìm thấy tại Iraq. Mỹ đã không chính thức rút khỏi quốc gia Trung Đông
này cho đến tận tháng 12/2011.
Di sản của Chiến tranh Vùng Vịnh
Chiến dịch Bão táp Sa mạc không chỉ quan trọng về quy mô mà còn về thời
điểm. Cuộc chiến này nổ ra vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh, tình trạng
căng thẳng quốc tế đã lắng xuống, khiến nhiều quốc gia phương Tây xem xét lại
chi tiêu quân sự của họ.
Cũng có một mối lo ngại sâu sắc rằng thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh tạo cơ
hội để thiết lập - theo lời Tổng thống George H. W. Bush trích dẫn của ông
Winston Churchill - một “trật tự thế giới mới” và Chiến tranh Vùng Vịnh chính
là tiền đề cho cách tiếp cận tương lai của cộng đồng quốc tế.
Đối với Tổng thống Bush và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher, trật tự mới
bao gồm sự không khoan nhượng đối với hành vi xâm lược quân sự và tăng cường sự
gắn kết quốc tế, luật pháp quốc tế và các thể chế tự do, bao gồm cả LHQ. Khi
làm như vậy, họ sẽ tìm cách thiết lập các phản ứng toàn diện và quyết định đối
với các cuộc khủng hoảng quốc tế, về mặt ngoại giao và quân sự.
Quyết định dừng tấn công Baghdad sau 42 ngày dựa trên các mục tiêu của
“trật tự thế giới mới” của các thể chế tự do cũng như tuân thủ điều lệ của LHQ.
Thủ tướng Anh John Major đã viết trong hồi ký của mình: “Nếu các quốc gia đã
tham chiến trên cơ sở luật pháp quốc tế mà lại tự mình phá vỡ luật đó thì tương
lai của trật tự thế giới sẽ có gì ngoài hỗn loạn?”.
12 năm sau, phần lớn nỗ lực nhằm tạo ra một cách tiếp cận quốc tế gắn kết
và tôn trọng luật pháp cùng thể chế quốc tế, đã bị cuộc chiến năm 2003 ở Iraq
làm sụp đổ. Đặc biệt, việc tiến hành các chiến dịch quân sự mà không nhận được
sự hỗ trợ của khu vực và LHQ đã gây tranh cãi lớn, đồng thời gây tổn hại nghiêm
trọng đến uy tín của Mỹ và Anh.
Trong bối cảnh cộng đồng quốc tế tiếp tục đối mặt với một mối đe dọa mới
tại khu vực Trung Đông là tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS), cơ hội để
hàn gắn vết thương Chiến tranh Iraq năm 2003 đã có. Mối đe dọa chung do IS gây
ra một lần nữa đem đến cơ hội cho cộng đồng quốc tế đoàn kết và tạo ra một trật
tự thế giới mới, dựa trên các liên minh hợp pháp, hoạt động thông qua LHQ và với
các đối tác khu vực./.
THẲNG THẮN TỰ PHÊ BÌNH VÀ THẬT THÀ PHÊ BÌNH TỨC LÀ ĐOÀN KẾT
“Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích ở bài nói chuyện trong buổi
bế mạc Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ II, ngày 28 tháng 2 năm 1957. Đầu năm
1957, miền Bắc hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 2 năm, công tác văn
nghệ cũng đã có bước phát triển mới và thành tựu mới, đến dự với Đại hội văn
nghệ toàn quốc lần thứ 2 Bác đã phát biểu: “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà
phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn
trước”.
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ
khẳng định tầm quan trọng của tự phê bình, phê bình, của đấu tranh đối với đoàn
kết, thống nhất trong mỗi tổ chức, mỗi người nói chung, đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ
nói riêng phải luôn đề cao ý thức phê bình, ý thức đấu tranh để xây dựng, củng
cố khối đoàn kết, thống nhất trong mỗi cơ quan, đơn vị, ngành mình. Đồng thời,
phải nhận thức sâu sắc đấu tranh, phê bình và tự phê bình chính là quy luật, động
lực của sự phát triển. Đấu tranh, phê bình phải thật thà, trung thực, không lợi
dụng phê bình để trù dập lẫn nhau. Đấu tranh, phê bình để đi đến thống nhất,
đoàn kết hơn, cùng nhau phát triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá để vững bước đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, lời dạy “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê
bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước"
vẫn giữ nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo mà còn là yêu cầu đòi hỏi
các tổ chức đảng, đoàn thể cách mạng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ
gìn con ngươi của mắt mình, phải tích cực đấu tranh, tự phê bình và phê bình, tự
phê bình và phê bình có tình thân ái, phải đúng người, đúng việc, phải thật thà
trung thực để đi đến đoàn kết và phát triển ngày càng tốt hơn.
Trong quân đội, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần quán triệt và thực hiện nghiêm lời
dạy của Bác; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh
Bộ đội Cụ Hồ”; chấp hành nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình để đi đến
đoàn kết, thống nhất trong từng đơn vị chính là hiện thực hoá lời dạy của Bác;
tránh lợi dụng đấu tranh, phê bình và tự phê bình để chia rẽ đoàn kết nội bộ,
trù dập lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến uy tín, nhân phẩm của đồng chí, đồng đội./.