Đại tướng Chu Huy Mân - người chiến sĩ cộng sản kiên
trung, mẫu mực, nhà chính trị-quân sự song toàn
Đồng chí Chu Huy Mân tên khai sinh là Chu Văn Điều, sinh ngày 17-3-1913, trong một gia đình nông dân hiếu học, tại xã Yên Lưu, tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An).
Với
93 tuổi đời, 76 năm tuổi Đảng, hơn 60 năm liên tục hoạt động cách mạng, trải qua
rất nhiều cương vị công tác, dù ở đâu, làm gì, trong bất kỳ điều kiện, hoàn
cảnh khó khăn, gian khổ, ác liệt thế nào, đồng chí Chu Huy Mân luôn nêu tấm
gương sáng về đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản kiên trung, mẫu
mực; nhà chính trị sắc sảo; nhà quân sự tài năng, suốt đời chiến đấu vì lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đồng
chí được đồng chí, đồng đội và nhân dân biết tới với tên gọi trìu mến
được Bác Hồ đặt - Hai Mạnh (mạnh cả về chính trị và
quân sự).
16
tuổi tham gia hoạt động cách mạng, 17 tuổi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông
Dương, đồng chí Chu Huy Mân được tôi luyện và trưởng thành trong phong trào đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ bước khởi đầu tham gia và chỉ huy
Đội Tự vệ đỏ ở quê nhà Nghệ An, bị thực dân Pháp nhiều lần bắt giam, tra tấn,
tù đày, đồng chí vượt ngục tham gia lãnh đạo khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 ở Quảng Nam.
Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên cương vị Phó bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị
viên Tỉnh đội, đồng chí đã cùng với tập thể lãnh đạo tỉnh Quảng Nam tích cực
xây dựng lực lượng vũ trang, tạo cơ sở, điều kiện căn bản cho địa phương bước
vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tiếp
đó, đồng chí được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân chính Khu C gồm các tỉnh:
Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên. Khi cuộc kháng chiến bùng nổ trên
phạm vi toàn quốc, với phẩm chất của một tài năng về chính trị và quân sự, đồng
chí Chu Huy Mân được điều ra Bắc và liên tục được giao những nhiệm vụ quan
trọng như: Trưởng ban Kiểm tra, Khu ủy viên Khu 1; Trung đoàn trưởng, Bí thư
Đảng ủy Trung đoàn 72 Bắc Kạn, Trung đoàn 74 Cao Bằng-những trung đoàn chủ lực
đầu tiên của Việt Bắc; Chính ủy Trung đoàn 174 Cao-Bắc-Lạng - một trong những
trung đoàn bộ binh chủ lực nổi tiếng của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam với
những chiến công vang dội trên Đường số 4.
Khi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta chuyển sang giai đoạn
tiến lên giành và giữ thế chủ động chiến lược, đồng chí Chu Huy Mân lần lượt
được giao các trọng trách Phó chính ủy, Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn
316-một trong 6 đại đoàn chủ lực đầu tiên của QĐND Việt Nam.
Cùng
với tập thể Đảng ủy, Ban chỉ huy Đại đoàn, đồng chí đã tiến hành củng cố hệ
thống tổ chức đảng, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, tổ chức huấn luyện quân sự,
chính trị cho bộ đội theo hướng đánh tập trung có hiệp đồng binh chủng.
Dưới
sự lãnh đạo, chỉ huy của tập thể Ban chỉ huy và đồng chí Chu Huy Mân, Đại đoàn
316 đã tham gia nhiều chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược làm thay đổi cục
diện cuộc kháng chiến của quân và dân ta như: Chiến dịch Hòa Bình (1951), Chiến
dịch Tây Bắc (1952), Chiến dịch Thượng Lào (1953).
Trong
Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), Đại đoàn 316 đảm nhiệm hướng tiến công ở phía
Đông, góp phần quan trọng đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, buộc thực dân
Pháp phải ký Hiệp định Geneva, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược.
Trong
giai đoạn này, trên nhiều cương vị chỉ huy khác nhau, trong bất cứ hoàn cảnh
nào, đồng chí Chu Huy Mân luôn thể hiện là cán bộ tiêu biểu về sự đoàn kết,
nhất trí trong lãnh đạo, được cán bộ, chiến sĩ, nhân dân địa phương nơi đóng
quân tin tưởng, quý mến.
Cán
bộ, chiến sĩ dưới sự chỉ huy của đồng chí luôn chấp hành nghiêm kỷ luật, huấn
luyện giỏi, công tác dân vận hiệu quả, để lại những tình cảm tốt đẹp đối với
nhân dân trên địa bàn đóng quân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đồng chí có tác phong sâu sát của một cán bộ lãnh đạo, thái độ quyết đoán, dứt
khoát, dám chịu trách nhiệm của người chỉ huy quân sự. Đó chính là nhân tố quan
trọng để những đơn vị dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của đồng chí Chu Huy Mân lập
được nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954).
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đồng chí được Đảng và Nhà
nước, Quân đội tin tưởng giao nhiệm vụ đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng,
trong đó có nhiệm vụ giúp cách mạng Lào. Thấm sâu lời Bác Hồ dạy “Giúp bạn là
tự giúp mình”, đồng chí Chu Huy Mân đã đem hết tâm sức và trách nhiệm cùng lực
lượng chuyên gia quân sự Việt Nam hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế. Trên
cương vị được phân công, đồng chí nhiều lần trao đổi với các đồng chí lãnh đạo
cao nhất của Đảng, QĐND Lào, như đồng chí Kaysone Phomvihane,
Hoàng thân Souphanouvong, Sisavath Keobounphanh... góp phần giải
quyết thành công các vấn đề cơ bản, trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đối với
thắng lợi của cách mạng Lào.
Trong
quá trình giúp bạn, đồng chí yêu cầu lực lượng chuyên gia quân sự Việt Nam phải
“nghiên cứu chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, có nội dung và kế hoạch cụ thể. Phải làm
tốt việc nêu vấn đề làm cho bạn hiểu và nắm chắc nội dung công việc, rồi tự đề
ra chủ trương, biện pháp thực hiện” (1).
Dưới
sự lãnh đạo của đồng chí Chu Huy Mân, lực lượng chuyên gia quân sự Việt Nam đã
góp phần quan trọng giúp bạn xây dựng lực lượng, tạo cơ sở cho cách mạng
và QĐND Lào vững bước tiến lên giành thắng lợi ngày càng to lớn, góp
phần vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, liên minh chiến đấu đặc biệt giữa hai
nước Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Với
những thành tích nổi bật, đồng chí Chu Huy Mân tiếp tục được giao nhiều nhiệm
vụ quan trọng như: Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu 4 (1957); Bí thư Khu ủy
Tây Bắc, đồng thời là Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Quân khu Tây Bắc (1958-1959).
Trên
cương vị là người đứng đầu về công tác Đảng, công tác chính trị, đồng chí đã
cùng với Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 4 vận dụng sáng tạo những chủ trương,
quan điểm cơ bản của Đảng về tổ chức lực lượng vũ trang và thế trận chiến tranh
nhân dân, góp phần xây dựng Quân khu 4 trở thành hậu phương trực tiếp của tiền
tuyến lớn miền Nam.
Tại
Quân khu Tây Bắc, bằng sự nhạy cảm chính trị của người chỉ huy cấp chiến dịch,
chiến lược cùng những kinh nghiệm tích lũy qua thực tế, đồng chí đã cùng với
Khu ủy Tây Bắc và Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu quán triệt sâu sắc, vận dụng
sáng tạo những chủ trương, quan điểm cơ bản của Đảng xây dựng và phát triển
toàn diện Tây Bắc trong bối cảnh và thế trận chung của cách mạng Việt Nam.
Thời
gian công tác ở Tây Bắc không dài nhưng đồng chí đã để lại dấu ấn đậm nét của
một nhà lãnh đạo chính trị, quân sự có tầm nhìn chiến lược sắc sảo, nhạy bén
đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển Tây Bắc nói chung và lực lượng vũ trang
trên địa bàn nói riêng. Công tác tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, góp phần
nhanh chóng khắc phục nạn đói; đời sống của nhân dân và lực lượng vũ trang trên
địa bàn từng bước được cải thiện, an ninh chính trị ổn định.
Đồng
chí đặc biệt quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân
tộc thiểu số; vấn đề vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương chung của Đảng,
của cách mạng vào một địa bàn cụ thể; vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân và thế trận chiến tranh nhân dân ở địa bàn rừng núi; vấn đề chăm lo giáo
dục và bồi dưỡng tinh thần quốc tế vô sản, sẵn sàng nhận và hoàn thành vẻ vang
nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào. Trong các vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
đồng chí luôn xác định xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải được coi là công tác
trọng tâm, khâu đột phá.
Trong
quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc, đồng thời phải sáng tạo, phù hợp
với tình hình thực tiễn. Chỉ trong một thời gian ngắn, tỷ lệ đảng viên ở các
xã, làng, bản vùng Tây Bắc được nâng lên. Sự lãnh đạo của Đảng được thiết lập
thành hệ thống từ khu ủy đến chi bộ. Kết quả phát triển của vùng Tây Bắc gắn
liền với vai trò của đồng chí Chu Huy Mân được Trung ương đánh giá là đúng đắn,
sáng tạo, mang lại hiệu quả cao; là một bài học kinh nghiệm quý báu cần phát
huy và nhân rộng.
Cuối
năm 1963, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta bước vào giai
đoạn quyết liệt, Khu 5 bị địch tập trung càn quét, đánh phá gây nhiều tổn thất,
nhiều vùng trắng cơ sở cách mạng, trắng dân. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng
cử đồng chí Chu Huy Mân vào chiến trường Khu 5 lần lượt giữ các chức vụ: Trưởng
đoàn Kiểm tra của Quân ủy Trung ương nghiên cứu phong trào cách mạng của Khu 5,
Phó bí thư Khu ủy rồi Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Khu 5.
Tháng
8-1965, đồng chí làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Mặt trận B3-Tây
Nguyên. Năm 1967, đồng chí làm Phó bí thư Khu ủy, Tư lệnh, Phó chính ủy, Phó bí
thư Quân khu ủy Khu 5. Đây là chặng đường dài đầy cam go, thử thách mà đồng chí
Chu Huy Mân đã đảm đương và hoàn thành xuất sắc vai trò là người lãnh đạo, chỉ
huy cả quân sự và chính trị trên một chiến trường nóng bỏng. Là một cán bộ chỉ
huy cấp chiến lược, với ý chí cách mạng kiên cường và tư duy sắc sảo, đồng chí
Chu Huy Mân luôn lấy mục tiêu đánh thắng quân Mỹ xâm lược làm tư tưởng chỉ đạo
hành động xuyên suốt trong cả chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.
Với
tầm nhìn xa trông rộng, đồng chí luôn có dự đoán chính xác, phát hiện kịp thời
những vấn đề nảy sinh trong thực tế để tìm ra phương pháp giải quyết đúng đắn, phù
hợp, hiệu quả cao. Từ đặc điểm chiến trường Khu 5, Tây Nguyên cũng như đặc điểm
của cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam, đồng chí luôn chăm lo xây dựng lực
lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích), tạo thành sức mạnh tổng hợp, sẵn sàng tác chiến ở mọi lúc, mọi nơi.
Trước
hết, về chính trị tư tưởng, đồng chí luôn quan tâm vấn đề giáo dục chính trị,
bồi dưỡng chủ nghĩa anh hùng cách mạng đi đôi với xây dựng tư tưởng tích cực
tiến công địch cho bộ đội. Trong lãnh đạo, chỉ huy, đồng chí luôn chú trọng xây
dựng và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất cao trong Khu ủy, phát huy dân chủ tập
thể, đồng thời quyết đoán và dám chịu trách nhiệm để chớp thời cơ giành thắng
lợi trên chiến trường.
Trong
chỉ đạo tác chiến, đồng chí luôn quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công, phát
huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp chặt chẽ “hai chân, ba mũi” giành thắng lợi cả
về quân sự, chính trị, giữ vững thế chủ động chiến lược. Trong điều kiện phải
lấy ít địch nhiều, đồng chí luôn coi trọng kết hợp chặt chẽ các yếu tố lực,
thế, thời, mưu để đánh địch, buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta.
Cách
đánh vây điểm-diệt viện, nghi binh lừa địch được đồng chí vận dụng rất sáng
tạo, mang lại hiệu quả cao. Trong chỉ đạo xây dựng thế trận chiến tranh nhân
dân, quán triệt quan điểm có dân là có tất cả, đồng chí luôn biết dựa vào sức
mạnh tinh thần yêu nước, đoàn kết của toàn dân, phát huy những yếu tố núi sông,
địa lợi, nhân hòa để xây dựng thế trận toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ
trang làm nòng cốt.
Khi
Mỹ đổ quân vào Khu 5, đồng chí nêu quyết tâm “Trước hết phải dám đánh thắng Mỹ,
cứ đánh khắc tìm ra cách đánh” (2) và phương
châm “Vừa học vừa làm vừa chiến đấu và rèn luyện”(3). Các vành đai
diệt Mỹ: Đà Nẵng, Chu Lai, Đức Phổ, Đệ Đức, An Đức, An Khê... được nhân rộng
trên khắp các chiến trường không chỉ giúp ta giữ quyền chủ động mà còn buộc
địch phải đánh theo cách của ta.
Chính
những quyết định sáng suốt, quyết đoán của đồng chí Chu Huy Mân và tập thể lãnh
đạo Khu ủy Khu 5 và Mặt trận Tây Nguyên đã góp phần quan trọng vào việc xác
định được cách đánh, xây dựng được lòng tin, quyết tâm “dám đánh, biết đánh và
biết thắng” cho quân và dân ta.
Nhờ
đó, thế trận chiến tranh nhân dân trên chiến trường Khu 5 ngày càng được củng
cố, phát triển; là cơ sở quan trọng để quân và dân ta thực hiện chiến lược tiến
công lần lượt đánh bại các chiến lược, chiến thuật của địch, đưa Khu 5 trở
thành địa phương đi đầu diệt Mỹ. Thắng lợi của quân và dân ta tại Núi Thành
(tháng 5-1965) không chỉ là lời giải ta có khả năng đánh Mỹ và thắng Mỹ mà còn
có ý nghĩa chiến lược trong sử dụng lực lượng chiến đấu với đối tượng tác chiến
mới.
Chiến
thắng Vạn Tường (tháng 8-1965) là luận cứ vững chắc của các phương án tác chiến
đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ trên chiến trường Khu 5 mà đồng
chí Chu Huy Mân luôn trăn trở, tìm tòi. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí
Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên Chu Huy Mân, bộ đội chủ lực Mặt trận
Tây Nguyên thực hành thắng lợi nhiều chiến dịch có ý nghĩa chiến lược như: Ba
Gia (1965), Plei Me (1965), Sa Thầy (1966), Cấm Dơi-Quế Sơn (1972), Nông
Sơn-Thượng Đức (1974)...
Trong
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đồng chí Chu Huy Mân là Chính ủy
Chiến dịch Đà Nẵng, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu 5 phối hợp với cánh
quân phía Bắc của Quân đoàn 2 tiến công giải phóng Đà Nẵng và các đảo trên Biển
Đông, sau đó tiến về Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau
ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976), đồng chí Chu Huy Mân tiếp tục
được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Trung ương bầu vào Bộ
Chính trị, được giao trọng trách Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là
Quân ủy Trung ương), Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam...
đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa II, VI, VII và được Quốc hội bầu làm Phó chủ
tịch Hội đồng Nhà nước (năm 1981).
Trên
cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm
Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
đồng chí Chu Huy Mân đã có nhiều đóng góp quan trọng, cùng các đồng chí lãnh
đạo Đảng và Nhà nước, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất nhiều
chủ trương đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự-quốc phòng,
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và làm nghĩa vụ quốc tế.
Với
những kiến thức sâu rộng, tư duy nhạy bén, sắc sảo cùng những kinh nghiệm cả về
quân sự và chính trị được tôi luyện trong những năm tháng chiến tranh, đồng chí
đã góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề mới đặt ra trong bối cảnh Việt Nam
sau chiến tranh, bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng kinh tế theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, động viên quân và dân ta tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh
bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới phía Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát
khỏi chế độ diệt chủng.
Những
đóng góp của đồng chí Chu Huy Mân mang tầm chiến lược, sâu sắc, thiết thực, sát
với hoàn cảnh mới kể cả về quân sự-quốc phòng, đặc biệt là vấn đề xây dựng
Đảng, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ chỉ huy binh chủng
hợp thành cấp chiến lược, chiến dịch. Đồng chí luôn nhấn mạnh với cán bộ Đảng
và Nhà nước cần phải xây dựng cho được ý thức, động cơ phục vụ cách mạng, phục
vụ nhân dân là trên hết, chống bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tham ô,
lãng phí.
Đồng
chí Chu Huy Mân đã có nhiều đóng góp vào chủ trương xây
dựng QĐND Việt Nam theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại. Là người phụ trách công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân
đội, đồng chí đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
đối với Quân đội; đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng với Quân đội.
Cơ
quan Tổng cục Chính trị được xây dựng ngày càng vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng chí luôn
chú trọng công tác giáo dục cho Quân đội, trước hết là cán bộ, đảng viên thấu
suốt đường lối cách mạng của Đảng, không ngừng phát huy truyền thống, bản chất
của một quân đội anh hùng, để QĐND Việt Nam mãi mãi là công cụ chính
trị sắc bén, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Từ
buổi đầu tham gia cách mạng đến trọn cuộc đời, đồng chí Chu Huy Mân luôn giữ
vững nhân cách và bản lĩnh của người cộng sản, một lòng một dạ phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Trong lao tù,
ngoài chiến trận, khi công tác hay trong sinh hoạt, đồng chí Chu Huy Mân luôn
thể hiện tinh thần chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, phẩm chất kiên trung,
mẫu mực với Đảng, với dân; đức hy sinh, lòng dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo
trong tổ chức và hoạt động thực tiễn, không ngừng học tập, rèn luyện, cống hiến
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Trong
lãnh đạo, chỉ huy, đồng chí luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn
học tập và làm theo lời dạy của Bác Hồ: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
tác phong lãnh đạo, chỉ huy vừa kiên quyết vừa chân tình, mềm dẻo, giữ nghiêm
kỷ luật, tôn trọng nguyên tắc, tôn trọng tập thể; luôn phát huy dân chủ và giữ
gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ. Đồng chí là người lãnh đạo, chỉ huy
mẫu mực về phong cách sâu sát thực tiễn, gần gũi, thương yêu đồng chí, đồng
đội.
Trong
thời kỳ chiến tranh, đồng chí thường xuống đơn vị cơ sở, ra tận chiến hào để
chỉ đạo và cùng cán bộ, chiến sĩ tìm cách khắc phục khó khăn, quyết tâm hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong cuộc sống, Đại tướng là người trung thực,
thẳng thắn, nghiêm cẩn, giản dị, cần kiệm, nghiêm khắc với mọi biểu hiện hách
dịch, hình thức, quan liêu; chan hòa, gần gũi với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào,
đồng chí.
Kỷ
niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Chu Huy Mân (17-3-1913 / 17-3-2023) là dịp để
chúng ta khẳng định và tôn vinh Đại tướng Chu Huy Mân-người chiến sĩ cộng sản
kiên trung, mẫu mực; nhà chính trị, quân sự tài ba, đức độ của Đảng, Nhà nước
và Quân đội; người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với
tư duy sắc bén, tầm nhìn chiến lược, kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc, Đại tướng
Chu Huy Mân đã có nhiều công lao và cống hiến xuất sắc vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam nói chung và quê hương Nghệ An nói riêng trong thời đại Hồ Chí
Minh.
Cuộc
đời và sự nghiệp của đồng chí Đại tướng Chu Huy Mân mãi là một tấm gương sáng
góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng
tự hào, tự tôn dân tộc; ra sức học tập, lao động sáng tạo, đoàn kết thống nhất,
quyết tâm xây dựng và bảo vệ vững chắc “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa”(4); thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét