Đến nay, Việt Nam đã bốn lần công bố Sách trắng Quốc phòng, trong đó thể hiện rõ mục tiêu: tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá chính sách quốc phòng Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
Những
năm qua, cùng với quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được
thể hiện nhất quán trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Việt Nam đã công bố
Sách trắng Quốc phòng, trong đó nêu rõ chủ trương “Bốn không”1, thể hiện rõ sự
công khai, minh bạch tính chất của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự
vệ; phương châm nhất quán là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi
tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích
cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chủ động bảo vệ Tổ quốc
từ sớm, từ xa. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng
cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung; tăng
cường sự hiểu biết và xây dựng lòng tin của các quốc gia khác với Việt Nam.
Tuy
nhiên, bất chấp sự thật, các thế lực thù địch đã không từ thủ đoạn nào để công
kích, xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam. Họ cho rằng, chính sách quốc
phòng nói chung, chủ trương “bốn không” của Đảng, Nhà nước ta nói riêng đã lỗi
thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn; “không liên minh quân
sự”, “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” là
Việt Nam đã “từ bỏ bạo lực cách mạng trong bảo vệ đất nước”, là “tự trói tay,
chân mình”, “tự cô lập mình”, đi ngược lại xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và
khu vực Biển Đông, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng
hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc
thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc,
v.v.
Cần
khẳng định rõ, những luận điệu trên hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn
chính sách quốc phòng của Việt Nam. Bởi, quan điểm nhất quán xuyên suốt của
Đảng, Nhà nước ta là: “Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên
trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là
nhân tố quyết định”2. Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 xác định: “Thực hiện đối
ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và
tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi
trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”3. Sách trắng
Quốc phòng Việt Nam 2019 nêu rõ: “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc
phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác
quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ
quyền quốc gia”4. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn
ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa
bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ
quốc”5.
Trên
thực tế, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng chính sách quốc phòng đã đề ra,
tích cực thực hiện cam kết trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế
giới. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100
nước trên thế giới, trong đó có 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, Quân đội
nhân dân Việt Nam đã cử hơn 510 lượt cán bộ, nhân viên với 03 lượt bệnh viện dã
chiến và Đội Công binh số 1 đến thực hiện nhiệm vụ tại Phái bộ Nam Sudan, Cộng
hòa Trung Phi, khu vực Abyei và Trụ sở Liên hợp quốc, được Liên hợp quốc cùng
cộng đồng quốc tế đánh giá cao, tạo uy tín, vị thế, đưa Việt Nam trở thành Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021 với
số phiếu bầu rất cao (192/193 phiếu tán thành). Đây là minh chứng thể hiện rõ
mong muốn, thiện chí của Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam trong thực thi
chính sách quốc phòng mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận.
Tuy
nhiên, để đẩy mạnh đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, sự xuyên tạc chính
sách quốc phòng Việt Nam trong tình hình hiện nay, cần thực hiện tốt những nội
dung cơ bản sau:
Một
là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và làm
rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề
quan trọng hàng đầu, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, bằng nhiều nội dung, hình
thức, biện pháp phong phú, sáng tạo; trong đó, chú trọng thông tin, tuyên
truyền về quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Luật Quốc
phòng, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Tập trung làm rõ cơ sở khoa học, khẳng
định tính chính nghĩa, hòa bình và tự vệ của chính sách quốc phòng Việt Nam. Để
đạt hiệu quả, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình
hình, kịp thời cung cấp thông tin khách quan, chính thống về hoạt động quân sự,
quốc phòng; những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong nước, khu vực và quốc tế,
nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết, cách tiếp cận đúng cho nhân dân, kiều bào
ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế về chính sách quốc phòng Việt Nam. Thông
qua đó, không ngừng củng cố lòng tin của các quốc gia về đất nước, con người
Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban
Chỉ đạo 35 các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, nhất là lực
lượng nòng cốt, chuyên sâu ở các cơ quan, đơn vị để hình thành mạng lưới sâu
rộng, hùng hậu tham gia đấu tranh làm thất bại mọi thủ đoạn xuyên tạc, chống
phá của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.
Hai
là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, một
trong những mục tiêu của các thế lực thù địch là phá hoại đường lối đối ngoại
và chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận, hạ
thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động
quân sự, quốc phòng, tiến tới “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tạo tiền
đề cho chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam. Để làm thất bại mưu đồ của
chúng, vấn đề tiên quyết đối với nước ta hiện nay là phải: “Giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập
trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và
sự nghiệp quốc phòng, an ninh”6. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ
chế, phương thức lãnh đạo của Đảng và hệ thống luật pháp của Nhà nước về quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, đảm bảo đồng bộ, thống nhất, tạo hành lang pháp lý
cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang
của các thế lực thù địch.
Ba
là, làm rõ chủ trương huy động mọi nguồn lực, tăng cường sức mạnh quốc phòng,
đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hiện nay, vấn đề mà các thế
lực thù địch tập trung công kích nhiều nhất là chính sách quốc phòng “bốn
không” của Việt Nam và hô hào đòi chúng ta phải liên minh, liên kết với nước
ngoài. Song, thực tiễn lịch sử đã minh chứng, chúng ta luôn giành thắng lợi
trước mọi kẻ thù xâm lược và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì đã biết phát huy cao
độ ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh nội lực của toàn thể dân tộc. Vì vậy, để
đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, cần làm cho mọi người hiểu rõ chủ trương
tăng cường sức mạnh quốc phòng phải dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước; kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Đồng thời,
xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân
và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ
quốc.
Bốn
là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, kiến tạo môi trường hòa
bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng và
kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình; đồng thời, phản bác
luận điệu “tự cô lập mình” của các thế lực thù địch. Do đó, cần tiếp tục phát
huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với chiến lược
đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, có nguyên tắc, tăng đối tác, giảm đối tượng, tạo
thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn,
các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh
xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc. Tích cực củng cố tình hữu nghị,
đoàn kết quốc tế, thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng, tăng cường tiềm lực để
xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần
củng cố lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với các nước, nâng cao vị thế, uy tín
của đất nước và Quân đội ta trên trường quốc tế.
Chính
sách quốc phòng Việt Nam thể hiện rõ truyền thống yêu chuộng hòa bình, nhân
văn, nhân đạo và thiện chí của Việt Nam, không chỉ góp phần xây dựng, củng cố
niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, mà còn làm phá sản mọi sự
chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
______________
1
- Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước
kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để
chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế.
2
- ĐCSVN – Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 - 2016), Nxb CTQGST, H. 2015, tr. 119 - 120.
3
- Luật Quốc phòng, Nxb QĐND, H. 2018, tr. 11.
4
- Bộ Quốc phòng – Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb CTQGST, H. 2019, tr. 28.
5
- ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST,
H. 2021, tr. 156 - 157.
6
– Sđd, tr. 160 - 161.
TS. BÙI ĐÌNH TIỆP. tapchiqptd.vn - 14.03.2023
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét