Đồng chí Hoàng Minh Thảo tên thật là Tạ Thái An, quê ở huyện Kim Động, Hưng Yên. Năm 1941 ông tham gia Việt Minh rồi được cử đi học quân sự ở Liễu Châu (Trung Quốc). Ông là Đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 304 (1950-1954). Kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, ông có thời gian dài là Viện trưởng Học viện Quân sự (nay là Học viện Lục quân).

Từ cuối năm 1966, ông được điều vào giữ chức Phó tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên và Khu 5. Đây là một chiến trường gian khổ, ác liệt bởi thường phải đối đầu với những đơn vị sừng sỏ nhất của quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu.

Trong điều kiện đó, kinh nghiệm từng trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo tác chiến tại nhiều đơn vị trên nhiều chiến trường và những lý luận quân sự mà ông đúc kết khi công tác tại Học viện Quân sự được đem ra vận dụng vào thực tiễn đã góp phần giúp cho Quân đội ta giành thắng lợi trong nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch.

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (1921-2008). Ảnh tư liệu
Chúng tôi từng gặp bác sĩ Nguyễn Đình Lễ-người trực tiếp phục vụ Tư lệnh Hoàng Minh Thảo tại nhà riêng ở khu tập thể Nam Đồng (Hà Nội). Ông kể: "Cuối năm 1974, đang công tác ở Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, tôi nhận lệnh đi chi viện chiến trường. Và phải đến ngày tập trung ở Trạm 66 (Phan Đình Phùng, Hà Nội) trong buổi sáng lên đường tôi mới biết mình được đi phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho đồng chí Hoàng Minh Thảo. Là người trực tiếp phục vụ Tư lệnh trong những ngày chuẩn bị Chiến dịch Tây Nguyên, dù tình hình hết sức căng thẳng, khẩn trương nhưng tôi thấy ông vẫn rất điềm tĩnh, sinh hoạt ngủ nghỉ điều độ như thường lệ.

Buổi sáng, ông “thảnh thơi” tưới nước cho mấy giỏ hoa phong lan treo trước cửa hầm chỉ huy. Mỗi khi di chuyển vị trí, ông đều tự tay buộc những giỏ lan này chắc chắn ở sau xe ô tô. Bước vào chiến dịch, Tư lệnh Hoàng Minh Thảo, đồng chí thư ký Nguyễn Văn Yêm và tôi thường xuyên cùng ngồi trên chiếc xe Uaz di chuyển đến sở chỉ huy các đơn vị, thói quen ấy của ông vẫn không thay đổi.

Đặc biệt khi đã về nghỉ ngơi, ông không bao giờ nói chuyện công việc. Vì vậy mà quá nửa đêm 9-3-1975, ở hầm tiền phương không thấy ông về nghỉ tôi vẫn nghĩ là ông đang bận họp mà thôi. Cho đến rạng sáng ngày 10-3, tự nhiên nghe tiếng đạn nổ rất gần, hỏi anh em bảo vệ bấy giờ tôi mới biết là ta đã nổ súng tấn công và đang đà thắng lợi rồi!”.

Dù từng trở đi trở lại Tây Nguyên nhiều lần nhưng khi nhận cương vị là Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên, đồng chí Hoàng Minh Thảo vẫn phải mất một thời gian làm quen lại bởi thực tế đã có nhiều biến chuyển. “Ngày 7-2-1975 chúng tôi vào đến sở chỉ huy Mặt trận Tây Nguyên, lúc đó anh Vũ Lăng-Tư lệnh Mặt trận đang chủ trì và nắm chắc chiến trường nên trước mắt đồng chí Hoàng Minh Thảo đề nghị có một thời gian ngắn nắm tình hình.

Ngay sau đó, ông đã cùng tập thể Bộ Tư lệnh nhanh chóng vào cuộc, chỉ đạo thực hiện mọi mặt công tác chuẩn bị cho chiến dịch mới”-bác sĩ Lễ cho biết. Và thực sự Tư lệnh Hoàng Minh Thảo đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng góp phần làm nên chiến thắng Tây Nguyên, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta tiếp tục thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Trong cuốn “Chiến dịch Tây Nguyên đại thắng” do NXB Quân đội nhân dân xuất bản năm 2004, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo nhận định: “Ta ghìm địch ở Bắc Tây Nguyên để phá vỡ địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”.

 Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (bên trái) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Ảnh tư liệu.

Thực tế, “nghệ thuật dùng mưu” trong Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng một loạt hoạt động cài thế bao vây, chia cắt, cô lập Buôn Ma Thuột. Quân Giải phóng tăng cường hoạt động nghi binh thu hút sự chú ý của Mỹ, ngụy về phía bắc (Kon Tum), đánh trận giả ở Pleiku. Địch đã mắc mưu. Ta đã đánh lừa cả bộ máy chiến tranh khổng lồ của địch, hút chúng về phía Bắc Tây Nguyên rồi bất ngờ tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển cao nguyên, buộc địch phải rút lui chiến lược, mở đầu cho sự tan rã ở chiến trường miền Nam, tạo thời cơ chiến lược kết thúc chiến tranh.