Hiện
nay, tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức
tạp, khó dự báo. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra
căng thẳng, phức tạp, quyết liệt. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn
hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn nguy
cơ xung đột. Các nước trong khu vực tiếp tục gia tăng các hoạt động, yêu sách
chủ quyền, nhất là ở những vùng biển giáp ranh, nhạy cảm, chưa phân định. Vì
vậy, vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo càng trở nên quan trọng, đòi hỏi chúng
ta phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Một là, nâng
cao nhận thức về chủ quyền biển, đảo và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền biển, đảo
cho cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Đây là
giải pháp quan trọng hàng đầu, nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động
trong hệ thống chính chính trị và toàn xã hội đối với trách nhiệm bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nhận thức đúng thì
mới tạo được sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước
trong mỗi người dân Việt Nam đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng
liêng của Tổ quốc, như Bác Hồ đã căn dặn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ
bán nước và bè lũ cướp nước”(7). Cần
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tạo sự
đồng thuận trong mọi tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo. Nội dung tuyên truyền cần tập trung vào vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; truyền thống, ý thức
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của dân tộc ta; đường lối, quan điểm, chính sách,
pháp luật, phương châm, tư tưởng chỉ đạo, đối sách giải quyết các vấn đề biển,
đảo của Đảng và Nhà nước ta; các tập quán, điều ước quốc tế về biển và Việt Nam
là thành viên; bản chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn
đề biển, đảo để chống phá nước ta; tính chất khó khăn, phức tạp, nhạy cảm của
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay...
Hai là, vận
dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng “dĩ bất
biến, ứng vạn biến” trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Quán
triệt và vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người, cần thấm
nhuần quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ quyền biển, đảo là chủ quyền quốc gia
trên biển, là lợi ích quốc gia thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là cái “bất
biến”. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng thay mặt đất nước và nhân dân Việt Nam, tuyên
bố với thế giới rằng, nhân dân chúng tôi thành thực mong muốn hòa bình. Nhưng
nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền
thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và độc lập cho đất nước; toàn thể
nhân dân Việt Nam “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của
cải”(8) để giữ vững chủ quyền quốc gia. Cái “vạn biến” là cách ứng
xử của ta phải linh hoạt, khôn khéo trong đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền
lãnh thổ theo đúng tinh thần: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc,
nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(9). Vận
dụng tư tưởng này của Người trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo đòi hỏi
phải tuân thủ các nguyên tắc để đạt mục đích tối thượng là bảo vệ toàn vẹn từng
tấc đất, sải biển, song phương pháp, cách thức đấu tranh phải linh hoạt, mềm
dẻo bằng mọi hình thức, biện pháp, trong đó lấy đối thoại, đàm phán hòa bình để
giải quyết bất đồng; kiên quyết, kiên trì không mắc âm mưu khiêu khích, tạo cớ.
Kiên định đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng giải pháp “hòa bình”, bằng
sức mạnh tổng hợp: đấu tranh chính trị, ngoại giao, chứng cứ pháp lý, lịch sử.
Chúng ta kiên trì, tránh xung đột nhưng khi chủ quyền bị xâm phạm, chúng ta sẵn
sàng đáp trả bằng quyền tự vệ chính đáng. Xử lý thật tốt mối quan hệ toàn vẹn
độc lập, chủ quyền và duy trì hòa bình, ổn định. Đồng thời, cần cảnh giác trước
những mưu toan hạ thấp giá trị chủ quyền biển, đảo hoặc làm suy giảm lòng tự
tôn dân tộc, tinh thần yêu nước…
Ba là, xây
dựng “thế trận lòng dân” trên biển, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Xây
dựng “thế trận lòng dân” trên biển là quá trình xây dựng nhân tố chính trị tinh
thần, ý chí, tâm lý và niềm tin của nhân dân trên vùng biển, đảo của Tổ quốc,
mà cốt lõi là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của nhân dân.
Xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển phải song hành với việc giữ gìn giá trị,
phát huy truyền thống lịch sử, bản sắc văn hoá biển; bảo đảm quyền tham gia,
hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với phát triển bền vững kinh tế biển
trên cơ sở công bằng, bình đẳng, tuân thủ pháp luật. Xây dựng “thế trận lòng
dân” trên biển vững mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó lực
lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.
Tập
trung xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng hải quân, cảnh sát
biển, biên phòng biển, kiểm ngư và dân quân tự vệ biển, có số lượng hợp lý,
chất lượng tổng hợp cao; chú trọng xây dựng trình độ kỹ thuật, chiến thuật,
trình độ hợp đồng tác chiến quân binh chủng đi liền với trang thiết bị kỹ thuật
ngày càng hiện đại; kết hợp tốt phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh
trên biển của các lực lượng chuyên trách. Đồng thời, cần phát huy tốt vai trò
tham mưu của lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho cấp
ủy, chính quyền địa phương về công tác quốc phòng, quân sự địa phương; về xây
dựng khu vực phòng thủ biển, đảo vững chắc; tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao
kiến thức quốc phòng, an ninh cho ngư dân; bảo đảm hậu cần - kỹ thuật nghề cá;
chú trọng công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và bảo vệ môi trường biển.
Bốn là, phát
triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Xác lập
và thực thi chiến lược phát triển đất nước thành một quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm
quốc phòng - an ninh; phát huy các nguồn lực bên trong, thu hút mạnh các nguồn
lực bên ngoài để phát triển các khu vực ven biển. Phát triển kinh tế biển là cơ
sở quan trọng để củng cố quốc phòng - an ninh trên biển, đồng thời củng cố quốc
phòng - an ninh trên biển là điều kiện, tiền đề để phát triển kinh tế biển một
cách bền vững. Bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế biển phải tạo cơ sở cho việc
bảo vệ chủ quyền biển, đảo và ngược lại. Sự gắn kết và mối quan hệ biện chứng
này phải được xác định rõ từ quan điểm, chủ trương, chính sách, kế hoạch về
phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng, an ninh trên biển; gắn chặt và thống
nhất chung trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta
khẳng định: “Đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản
các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái
biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế
ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực;
phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng”(10). Để
hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia biển mạnh, cần khuyến khích các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng
biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; tạo điều kiện thuận lợi và
khuyến khích người dân định cư lâu dài trên các đảo. Tăng cường công tác cứu
hộ, cứu nạn và bảo đảm an ninh, an toàn trên biển, đảo. Tập trung xây dựng và
nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với
hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Đổi mới tư duy trong
xây dựng và thực hiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống đô thị ven biển
có kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xã hội đồng bộ, hiện đại, theo mô hình, tiêu chí
tăng trưởng xanh, đô thị thông minh. Đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ
tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển theo hướng tiếp cận mô hình khu
kinh tế, khu công nghiệp sinh thái, công nghệ cao, có sức hấp dẫn các nhà đầu
tư, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; giải quyết tốt vấn đề môi trường, xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống người dân./.
V3.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét