CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN QUÂN SỰ
HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống nhân ái
quý báu của dân tộc Việt Nam, tinh hoa giá trị nhân văn của nhân loại mà đỉnh
cao là tư tưởng nhân văn cộng sản chủ
nghĩa của chủ nghĩa Mác – Lênin vào lĩnh vực quân sự; là sự thống nhất giữa tư
tưởng bạo lực cách mạng với tư tưởng nhân văn, nhân đạo, hoà bình với khát vọng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tin tưởng mãnh
liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người trong các hoạt động quân sự nhằm hiện
thực hoá mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là:
Giá trị nhân văn
trong truyền thống của dân tộc Việt Nam và của nhân loại được kết tinh và thể
hiện sâu sắc trên tầm cao mới trong tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyền
thống văn hoá đặc sắc, cốt lõi là tinh
thần dân chủ, nhân đạo, nhân văn trong giành, giữ, sử dụng sức mạnh góp phần
thực hiện thắng lợi công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Biểu hiện cao nhất của truyền thống nhân văn của nền văn hoá Việt Nam là
luôn hướng tới mục đích vì con người, giải phóng con
người, tôn trọng quyền con người và tạo điều kiện cho con người phát triển tự
do, hài hoà, toàn diện. Đó là tính nhân văn sâu sắc, cốt lõi của một nền văn
hoá, những giá trị tiêu biểu ấy luôn thể hiện đậm nét tính chân thực, cụ thể,
có khả năng đi vào cuộc sống. Giá trị nhân văn ưu việt của dân tộc ta luôn được
thấu triệt trong hệ tư tưởng chính trị, qua các quyết sách nhằm phục vụ cuộc
sống của mỗi cá nhân, cộng đồng và phát triển xã hội.
Con người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của quá trình phát triển.
Tiến trình phát triển lịch sử của dân tộc Việt Nam và của nhân loại nói chung cho
thấy, các thời đại đều coi trọng vị trí, vai trò con người, coi con người là
nhân tố quyết định sự phát triển. Nếu Khổng Tử ở Trung Quốc quan niệm: “Dân vi bang bản” (Dân là gốc của nước),
thì ở Việt Nam, Nguyễn Trãi coi “dân” là “sỹ,
nông, công, thương”, là người dân “nơi
thôn cùng, xóm vắng” để đi đến khẳng định đó là những người mà sức mạnh của
họ như “nước” để “đẩy thuyền” và “lật thuyền”... Do đó, trong lịch sử dựng nước
và giữ nước, ông cha ta đã dùng nhiều kế sách đặc sắc, thể hiện tính nhân văn nhằm
xây dựng, phát triển dân tộc và con người. Trong quan hệ với nước lớn, với bè
bạn, láng giềng, thậm chí với kẻ thù, người xưa đều thực hiện các quyết sách
hòa bình, hữu nghị, hợp tác vì sự phát triển và tiến bộ để tạo môi trường thuận
lợi cho sự tồn tại, phát triển. Phan Huy Chú nêu rõ phương châm: “Trong việc
trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn”1, còn Trần Hưng Đạo
thì khẳng định: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước, hành binh. Hòa ở
trong thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài thì không bị báo động”2.
Trong cuộc kháng chiến chống Tống, dù đang ở thế chủ động, Lý Thường Kiệt vẫn
tìm mọi cách “dùng biện sỹ để bàn hòa, khiến tướng giặc phải buông vũ khí, quân
ta đỡ tốn xương máu mà giữ yên xã tắc”3. Trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh, dù đang ở thế thắng, nhưng Lê Lợi, Nguyễn Trãi vẫn chủ trương
giảng hòa để kết thúc chiến tranh. Vì vậy, hơn 10 vạn quân Minh trước khi được
tha về nước với đầy đủ quân lương đã đến doanh Bồ Đề để lạy tạ Lê Lợi, Nguyễn
Trãi và nghĩa quân Lam Sơn. Khẳng định tinh thần nhân nghĩa đó của người Việt
Nam, Nguyễn Trãi viết:
“ Nghĩ kế nước nhà trường cửu, Tha cho mười vạn hàng binh, Gây lại hòa hảo
cho hai nước, Dập tắt chiến tranh muôn đời”4.
Giá trị văn hoá ưu việt của nhân loại đều coi trọng con người, coi con
người là chủ thể của sự phát triển, từ đó mà yêu cầu trong quan hệ giữa con
người với nhau phải có thái độ nhân đạo, bình đẳng.
Những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, hướng tới
hòa bình, xóa chiến tranh, làm điều thiện cho nhau…, trong văn hóa phương Tây;
cứu nhân độ thế, cứu một người phúc đẳng hà sa, chú trọng giáo hóa để thoát
khỏi u mê, mở mang trí tuệ, trừ bỏ lòng tham lam và sự nóng giận, tiêu diệt cái
ác, vun trồng điều thiện..., trong văn hóa phương Đông đã được Hồ Chí Minh
nghiên cứu, gạn lọc, kế thừa những hạt nhân hợp lý, phù hợp phát triển lên tầm
cao mới thể hiện ở mục tiêu chính trị của cách mạng giàu
tính dân chủ, nhân đạo, nhân văn.
Đặc biệt, tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là biểu hiện sâu sắc của
quá trình nghiên cứu, kế thừa, phát triển sáng tạo chủ nghĩa nhân đạo cộng sản
- hạt nhân của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoạt động quân sự. Quan điểm mácxít đã
chỉ rõ cơ sở khoa học cho sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bóc lột hà khắc của các giai cấp
thống trị, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi hủ tục lạc hậu, trì
trệ, để phát triển toàn diện, vươn tới tự do, hạnh phúc..., đã được Hồ Chí Minh
thực hiện bằng phương pháp nhân văn trong mọi hoạt động của mình. Người nêu rõ:
“Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình nghĩa”5, đó là cốt lõi của
cuộc đời hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh.
Như vậy, tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là sự
kế thừa sâu sắc, phát triển sáng tạo những giá trị ưu việt của truyền thống dân
tộc và nhân loại; luôn xuất phát từ khát vọng giải phóng con người, tôn trọng
giá trị nhân phẩm con người, coi quyền con người được phát triển tự do, hạnh
phúc là tiêu chuẩn đánh giá các quan hệ xã hội; phải thừa nhận các nguyên tắc
bình đẳng, công bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa con người với con người. Vì
vậy, sự nghiệp giải phóng con người phải gắn liền với giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp.
Tư tưởng nhân văn
quân sự Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm lý luận về con người trong hoạt động
quân sự, được thấm đượm trong lĩnh vực hoạt động quân sự
Bản chất con người, trong tính hiện thực của nó, là tổng hoà các quan hệ xã
hội. Do đó, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, muốn giải phóng và tạo điều kiện
cho con người phát triển toàn diện phải thay đổi những quan hệ kìm hãm, trói
buộc con người. Nghĩa là, phải xoá bỏ tình trạng người bóc lột người, thiểu số
thống trị đa số, xây dựng quan hệ bình đẳng giữa con người với con người, tạo
lập hệ thống những quan hệ xã hội tốt đẹp. Chủ nghĩa thực dân, đế quốc đã sử dụng
sức mạnh bạo lực phản cách mạng kết hợp với những thủ đoạn nham hiểm để nô dịch
con người và các dân tộc thuộc địa, cho nên các dân tộc bị áp bức phải sử dụng
bạo lực cách mạng nhằm chống lại, đập tan bạo lực phản cách mạng để giải phóng
mình. Vì lẽ đó, bạo lực cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự bản thân nó đã
thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân văn, nhân đạo, hoà bình.
Tư tưởng nhân
văn quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, lấy hạnh phúc của con người làm nguyên tắc cao nhất.
Trong cuộc chiến đấu ấy, con người phải được giải phóng cả về thể chất lẫn tinh
thần, thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc; con người
thực sự làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng hợp lực xây
dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; mọi người đều được phát triển toàn diện
về trí tuệ, thể chất, tinh thần, đạo đức trong mối quan hệ hài hoà giữa cá
nhân, gia đình và xã hội.
Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn cộng sản được vận dụng nhuần nhuyễn vào lĩnh vực quân sự ở Việt Nam. Các nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh đều thấm đượm tư tưởng nhân văn cộng sản, đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; trong lựa chọn các phương pháp cách mạng, trong đó vũ trang cách mạng là phương pháp mang tính phổ biến để giành độc lập dân tộc, giành tự do, hạnh phúc cho nhân dân; sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc gắn chặt với công cuộc bảo vệ hoà bình ở khu vực và thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét