Những thành tựu vô cùng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành được trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, là minh chứng cho năng lực lãnh đạo, cầm quyền và uy tín của Đảng ta. Bài viết đánh giá rõ hơn về vai trò và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó gợi mở những vấn đề trọng tâm để mỗi tổ chức cơ sở đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần triển khai thực hiện tốt góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta thực sự trong sạch, vững mạnh và uy tín, củng cố thêm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ ngày thành lập (3-2-1930) cho đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam không ngừng nghiên cứu, tổng kết, đổi mới, đúc rút kinh nghiệm để
ngày càng hoàn thiện hơn về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền trong quá trình
giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước và trong giai đoạn xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Đồng thời, thể hiện quan điểm, lập trường, tư tưởng nhất quán,
kiên định của Đảng ta trong việc vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng đã quy
tụ được sức mạnh, tiềm năng, khát vọng, ý chí của Nhân dân và chuyển hóa thành
sức mạnh quần chúng - sức mạnh tổng hợp để xây dựng xã hội và cuộc sống của
người dân ngày một thịnh vượng… đó chính là “uy tín” của Đảng ta mà “niềm tin”
của Nhân dân dành chọn, gửi gắm.
Vai trò và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua 94 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng
sản Việt Nam là người lãnh đạo, cầm quyền và tổ chức mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, ngoại giao… Đảng ta ngày càng vững mạnh là điều kiện quyết định
nhất để chúng ta xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xây dựng chủ nghĩa xã hội
thành công.
Sau những năm tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm
1986), Đảng ta đã đúc rút kinh nghiệm và nhấn mạnh: “Điều kiện cốt yếu để công
cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong
quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi
mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình”(1).
Thập niên 90 của thế kỷ trước, tình hình thế giới
có nhiều biến động to lớn, đặc biệt là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa ở Đông Âu; ở trong nước có một số cán bộ, đảng viên dao động, hoài
nghi về sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường chống phá cách mạng
Việt Nam dưới nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm… hòng gây chia rẽ sự
đoàn kết nội bộ trong Đảng và gây sự hoài nghi, dao động trong mọi tầng lớp
nhân dân. Tuy nhiên, nhờ kiên định đường lối đã chọn, sáng suốt, tài tình trong
lãnh đạo của Đảng, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh năm 1991 nhấn
mạnh: xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân
lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Do đó, trong giai đoạn năm 1991-1995, đất nước ta
dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái, nền kinh tế tiếp tục đạt được nhiều
thành tựu quan trọng; GDP bình quân tăng 8,2%/năm; hầu hết các lĩnh vực kinh tế
đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng
đánh giá: “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và
kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề
cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”(2).
Những thành tựu vô cùng quan trọng mà đất nước ta
đạt được trong giai đoạn năm 1991-1995 là thể hiện rõ vai trò và uy tín của
Đảng ta đã ngày càng vững mạnh về bản lĩnh chính trị, về tính khoa học đúng đắn
trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về
tầm cao tư duy dám đổi mới, sáng tạo phù hợp với điều kiện ở trong nước cũng
như bối cảnh thế giới, khu vực lúc bấy giờ. Mặt khác, trong Đảng đã dám nhìn
thẳng vào sự thật để đánh giá khách quan, khoa học những hạn chế, khuyết điểm,
cả những việc chúng ta chưa làm được, chưa thành công… để rút kinh nghiệm, tìm
tòi giải pháp để khắc phục, sửa chữa. Đồng thời, trong giai đoạn này Đảng ta
tích cực, chủ động trong việc mở rộng quan hệ kinh tế, ngoại giao với các quốc
gia, vùng lãnh thổ, với phương châm và quan điểm rõ ràng mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với
một ai”(3).
Từ ngày 11-7-1995, giữa Mỹ và Việt Nam đã bình
thường hóa quan hệ ngoại giao, dỡ bỏ lệnh cấm vận về kinh tế đối với Việt Nam.
Đây là điều kiện quan trọng để Việt Nam từng bước ký kết các hiệp định thương
mại với các quốc gia, tổ chức trên thế giới, góp phần tiếp tục đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội và là tiền đề để Đảng, Nhà nước ta xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (từ Đại hội IX của Đảng); từng bước
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đời sống vật chất và tinh thần của người
dân không ngừng được nâng lên.
Cụ thể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất hàng hóa với thị trường; Đảng và Nhà
nước ta đẩy mạnh thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
(kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, mô hình các hợp tác xã, tổ chức phát triển
kinh tế…). Trong đó, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa dần được hình thành, kinh tế vĩ mô đã cơ bản ổn định. Việt Nam đã
tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện cam kết về khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại thế giới (WTO). Đặc biệt,
tính đến tháng 8-2023, Việt Nam đã ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA)
với các quốc gia, tổ chức kinh tế trên thế giới đang còn hiệu lực (16 hiệp
định) và tiếp tục đang đàm phán 3 hiệp định(4). Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, trong đó, Việt Nam đã nâng tầm quan hệ
“Đối tác chiến lược toàn diện” với 7 quốc gia gồm: Trung Quốc (tháng 5-2008),
Liên bang Nga (tháng 7-2012), Ấn Độ (tháng 9-2016), Hàn Quốc (tháng 12-2022),
Hoa Kỳ (tháng 9-2023), Nhật Bản (tháng 11-2023), Ô-xtrây-li-a (tháng 3-2024) và
18 đối tác chiến lược, 12 đối tác toàn diện.
Trải qua 47 năm (từ ngày 20-9-1977) Việt Nam chính
thức gia nhập Liên hiệp quốc, với những đóng góp của mình, Việt Nam đã được tín
nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của Liên hiệp quốc và ghi được
nhiều “dấu ấn” tại các cơ quan như Hội đồng Bảo an, Hội đồng Nhân quyền... Đặc
biệt, ngày 9-4-2024, Hội đồng Kinh tế - xã hội (ECOSOC) đã nhất trí bầu Việt
Nam vào Hội đồng Chấp hành cơ quan Liên hiệp quốc về bình đẳng giới và trao
quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027.
Với chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong
triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Tính đến ngày 30-6-2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn
mới; 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn
mới kiểu mẫu. Bình quân cả nước đạt 16,9 tiêu chí/xã; có 263/644 đơn vị cấp
huyện (40,8%) thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt
chuẩn nông thôn mới(5). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân
là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi
chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào
Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(6).
Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến phát
triển toàn diện con người Việt Nam về sức khỏe, giáo dục và thu nhập cũng như
những thụ hưởng về văn hóa, tinh thần… Theo Báo cáo Phát triển con người (HDR)
toàn cầu 2021/2022 được Chương trình Liên hiệp quốc tại Việt Nam công bố tháng
9-2022 cho biết: Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2021 là
0,703, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, từ 117/189 quốc gia vào năm
2019 lên 115/191 quốc gia trong năm 2021; HDI của Việt Nam xếp thứ 6 trong khu
vực Đông Nam Á. Tính đến đầu năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều
cả nước giảm còn 2,93% (giảm 1,1% so với cuối năm 2022), Việt Nam là 1 trong 30
quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng
chuẩn nghèo đa chiều, bảo đảm mức sống tối thiểu và thiếu hụt tiếp cận dịch vụ
xã hội cơ bản (6 chiều về việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ
sinh, thông tin). Có thể khẳng định, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận trong công tác xóa đói, giảm nghèo.
Những thành tựu trên được các quốc gia và chính
đảng các nước đánh giá cao. Ông Walter Sorrentino, Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản
Bra-xin khẳng định: “Từ thực tiễn của Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là một chế độ
xã hội mà chính quyền phục vụ Nhân dân, lấy Nhân dân làm gốc. Kết quả xóa đói,
giảm nghèo của Việt Nam là minh chứng có giá trị hơn mọi lời nói. Điều này càng
được thể hiện rõ ràng trong đại dịch COVID-19, cho thấy rõ tính ưu việt trong
phòng, chống dịch bệnh của chính quyền các nước xã hội chủ nghĩa… Có được điều
này là bởi chủ nghĩa xã hội là nhân văn, là động lực để nhân loại hướng tới một
xã hội thịnh vượng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo vệ
độc lập, tự chủ và môi trường thiên nhiên. Nó đòi hỏi phải có một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trong đó Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”(7).
Tại sự kiện “Người Việt Nam có tầm ảnh hưởng 2024”
(VGLF) ở Pháp, ông Philipp Rösler - nguyên Phó Thủ tướng Đức đánh giá: “Việt
Nam đang đứng trước cơ hội, thời điểm để tìm ra con đường hướng tới sự thịnh
vượng. Bên cạnh đó, Việt Nam là đất nước trung lập trong nhiều thế kỷ và tìm ra
các giải pháp hòa bình. Vì thế, Việt Nam có thể đóng vai trò lớn hơn vì lợi ích
của nhân loại”(. Khi phân tích,
đánh giá bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,
ông Petro Simonenko, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
U-crai-na nêu rõ: “Những thành tựu của Việt Nam hiện nay một lần nữa chứng minh
ưu thế vượt trội của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản, đó là bảo đảm sự
thỏa mãn tối đa các nhu cầu văn hóa và vật chất ngày càng tăng của cả xã hội
bằng cách không ngừng nâng cao và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ
nghĩa trên cơ sở các thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất… Một lần nữa chúng
tôi tin tưởng rằng, những ưu việt của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội của Việt Nam là rõ ràng và không thể bàn cãi”(9).
Đặc biệt, kết quả tích cực về cải cách thể chế và
đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước làm cho Việt Nam trở thành một
trong những quốc gia có hệ thống chính trị phát triển, ổn định hàng đầu thế
giới. Minh chứng rõ nhất là thành phố Hà Nội đã được lựa chọn là nơi tổ chức
Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần hai từ ngày 27 đến ngày 28-2-2019 giữa
Tổng thống Mỹ Donald Trump và lãnh đạo Kim Jong-un; đồng thời lần đầu tiên
trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã thăm cấp nhà
nước tới Việt Nam (từ ngày 10 đến ngày 11-9-2023) theo lời mời của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng. Đây là sự khẳng định cho một thể chế chính trị Việt Nam phát
triển hài hòa và mô hình kinh tế hiệu quả; là thể hiện rõ nét nhất về vai trò
và uy tín của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế. Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức
sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua
nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(10).
Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng
Để Đảng ta luôn thực sự là một đảng cầm quyền duy
nhất, lãnh đạo toàn diện đất nước trong mọi hoàn cảnh, đòi hỏi Đảng phải thật
sự “trí tuệ”, luôn đổi mới, sáng tạo phương thức cầm quyền và phải “tỉnh táo”
trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thực tế, từ ngày
thành lập cho đến nay, Đảng ta đã hoàn thành tốt sứ mệnh mà nhân dân giao phó,
ngày càng đem lại niềm tin vững chắc đối với nhân dân.
Có được niềm tin rất lớn ở Nhân dân là do Đảng ta
đã thẳng thắn đánh giá, chỉ rõ những khuyết điểm, tồn tại trong lãnh đạo, chỉ
đạo, để từ đó đề ra giải pháp phù hợp, quyết liệt nhằm sửa chữa, khắc phục. Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quán triệt
và thực hiện một số nghị quyết còn chậm, chưa quyết liệt, chưa hiệu quả. Thực
hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một
số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”(11). Điều này cho thấy bản
lĩnh chính trị của Đảng ta, dám nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
chứ không né tránh, “che đậy” những hạn chế, cũng chính từ sự “bản lĩnh” này mà
Nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta trong giai đoạn
hiện nay.
Xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực là nhiệm vụ lâu dài, nên Đảng ta luôn kiên quyết, kiên trì. Từ năm 2013,
khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập, công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng được thực hiện quyết liệt, đạt được nhiều kết
quả toàn diện. Từ tháng 9-2021, để công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục đi
vào chiều sâu, toàn diện, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
được Bộ Chính trị quyết định bổ sung chức năng, nhiệm vụ, chỉ đạo công tác
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trọng tâm là chống sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và
Nhà nước ta; đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng liêm chính, trong sạch, vững
mạnh.
Với quan điểm đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
tiêu cực của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang
thông suốt” và “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng”. Nhằm cụ thể hóa quan điểm chỉ
đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Bộ Chính trị đã quyết định cho tiến hành từng
bước thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở tất cả các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, do đồng chí bí thư tỉnh ủy làm trưởng
ban, đã góp phần gắn kết chặt chẽ hơn giữa phòng và chống theo đúng tinh thần
chỉ đạo của Đảng đề ra từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Từ khi
thành lập đi vào hoạt động, các ban chỉ đạo cấp tỉnh đã có sự chuyển biến rõ
rệt, với nhiều kết quả nổi bật trong công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực.
Cụ thể, về công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng, trong
năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng,
hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% về số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022).
Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên
không được làm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm
tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản
lý. Trong đó, lần đầu tiên có 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm trong kê
khai tài sản, thu nhập. Các cơ quan chức năng đã cho thôi giữ chức vụ, nghỉ
công tác, bố trí công tác khác đối với 9 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các
địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm, bố trí công tác khác hơn 360 trường hợp
sau khi bị kỷ luật, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện tỉnh ủy, thành ủy quản lý.
Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán
bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng. Về công tác điều tra, truy tố, xét xử, năm 2023, các cơ quan tiến hành tố
tụng trên cả nước đã khởi tố hơn 4.500 vụ, hơn 9.370 bị can về các tội tham
nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 46% về số vụ án so với năm 2022). Riêng án tham
nhũng tăng gần hai lần về số vụ và hơn hai lần về số bị can(12).
Bất kể cán bộ, đảng viên giữ vị trí công tác nào
(dù đương chức hay đã nghỉ công tác) nếu vi phạm “những điều đảng viên không
được làm” thì đều bị xử lý kỷ luật kể cả mặt đảng và chính quyền, điều này cho
thấy công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta là “không có vùng
cấm”, “không có ngoại lệ”, “bất kể người đó là ai”. Qua điều tra xã hội học về
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân khi được hỏi, thì đại đa số người dân
rất đồng tình, ủng hộ cao cách làm quyết liệt, triệt để, khoa học, thận trọng
từng bước khi phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các cá nhân, tổ chức có dấu
hiệu vi phạm, để không bỏ sót, bỏ lọt đối tượng, tránh oan sai. Điều này cho
thấy sự đồng thuận, đặt niềm tin rất lớn của người dân vào quyết tâm làm trong
sạch bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị; quyết tâm diệt trừ tận gốc tệ tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Giữ vững niềm tin của Nhân dân đối với Đảng
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục
diễn biến phức tạp, khó dự đoán; ở trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách
thức đan xen; các thế lực thù địch, phản động vẫn tăng cường chống phá cách
mạng Việt Nam; sự phát triển của khoa học công nghệ, các nền tảng mạng xã hội
khó kiểm soát… Đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tăng cường bảo vệ vững chắc nền
tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng là những việc
rất quan trọng, do đó trong thời gian tới cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện tốt được điều này, trước hết mỗi tổ chức
đảng phải thực hiện nghiêm những quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động cơ
bản của Đảng ta là: 1) Tập trung dân chủ trong Đảng; 2) Tự phê bình và phê
bình; 3) Đoàn kết thống nhất; 4) Gắn bó mật thiết với Nhân dân; 5) Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, phải hết sức chú trọng
đến các nguyên tắc trong công tác tư tưởng như: nguyên tắc tính Đảng; nguyên tắc
tính khoa học; nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, lời nói đi đôi
với việc làm. Đặc biệt là “tính Đảng” cần hết sức coi trọng, trên cơ sở đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt quan điểm, đường lối của
Đảng, xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, phải tăng cường đổi mới mạnh mẽ
tư duy và cách thức làm công tác tư tưởng, mở rộng tính dân chủ, công khai,
minh bạch, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử có thái độ hữu khuynh
hoặc mơ hồ những vấn đề tư tưởng có tính nguyên tắc.
Tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban nhân sự chuẩn
bị cho Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban chủ
trì phiên họp có đề cập và nhấn mạnh đến những vấn đề có tính nguyên tắc của
Đảng ta và cũng phù hợp với thể chế chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, đó là: “Tập thể lãnh đạo”, “Lãnh đạo tập thể”, “Lãnh tụ tập thể”. Có thể
nói, đây cũng là lần đầu tiên khái niệm “lãnh tụ tập thể” được nhấn mạnh trong
công tác chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bởi vì, tầm đặc biệt quan
trọng của công tác chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIV của Đảng có ý nghĩa lịch
sử, là trọng trách nặng nề; “Lãnh tụ tập thể” còn có hàm nghĩa quy tụ, hội tụ
được những cán bộ, đảng viên thực sự có đức, có tài, trong đó đức là gốc. Cụ
thể, là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, nhân sự trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải thực sự là một khối thống nhất, thông suốt
trong hành động, trong lãnh đạo, chỉ đạo những vấn về quan trọng của đất nước.
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, phong cách,
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta phù hợp với xu thế thời đại và thực
tiễn đất nước. Đảng ta là đảng cầm quyền, những thắng lợi và thành tựu, những
thất bại và tổn thất của cách mạng đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng. Sự
lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến toàn bộ hệ thống để bảo đảm giữ vững
quyền lực chính trị của nhân dân. Tính nhất quán tạo nên phong cách, sự kiên
định tạo nên sức mạnh, nghĩa là nhất quán trong việc ban hành chỉ thị, nghị
quyết với hành động; kiên trì, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường cách mạng mà Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn. Do đó, đổi mới
nội dung, phong cách và phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là để hạ thấp
hay xóa bỏ vai trò lãnh đạo, mà chính là để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng;
tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, cần phân rõ được đúng chức năng
giữa Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là giữa Đảng với
Nhà nước, có cơ chế và phương thức hoạt động khoa học, phù hợp, linh hoạt để
phát huy dân chủ và đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng đất nước.
Ba là, quyết liệt, mạnh mẽ trong công tác phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta sớm
nhận diện và ngày càng xác định rõ hơn về nguy cơ, tác hại của tệ tham nhũng,
tiêu cực đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng đất
nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thẳng thắn đánh giá: “Công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến
rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện
xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát
hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình
trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính,
dịch vụ công chưa được đẩy lùi… Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị còn chậm đổi mới, có mặt lúng túng”(13). Do đó, chúng ta phải quyết
liệt, mạnh mẽ trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài.
Bốn là, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý “có tâm”, “có tầm”. Trong công tác cán bộ, từ
khâu tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm phải thận trọng, khách quan, công tâm, đặc
biệt đối với những cán bộ cấp chiến lược, cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là người thực sự tiêu biểu về phẩm chất đạo
đức, lối sống, nổi trội về năng lực lãnh đạo, quản lý, có tầm nhìn chiến lược
dài hạn; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo vệ, khuyến khích những
cán bộ có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám chịu trách
nhiệm vì lợi ích chung; có tinh thần cống hiến, phụng sự Tổ quốc… Hiện nay,
chúng ta đang chuẩn bị cho công tác nhân sự Đại hội XIV của Đảng (nhiệm kỳ
2026-2030), đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trong chặng
đường tiếp theo của cách mạng Việt Nam.
Năm là, tiếp tục thực hiện nghiêm, hiệu quả các chỉ
thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng Đảng và hệ thống chính
trị. Mỗi cơ quan, đơn vị cần xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực
hiện một cách nghiêm túc, hiệu lực, hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung
ương, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, khóa XIII về đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử
lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, có
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm, hiệu
quả Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những
điều đảng viên không được làm; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Ban
Chấp hành Trung ương về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực trong công tác cán bộ.
Sáu là, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế với
các chính đảng trên thế giới, đặc biệt là Đảng Cộng sản các nước. Văn kiện Đại
hội IX của Đảng đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu
vì hòa bình, độc lập và phát triển”(14). Với phương châm chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc
tế, nhận được sự tin cậy của bạn bè thế giới và đem lại nhiều thành tựu trên
các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa xã hội. Tăng cường giao
lưu, hợp tác với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới còn nhằm tranh thủ
sự ủng hộ, đồng thuận; làm cho các quốc gia, tổ chức hiểu rõ hơn về bản chất
tốt đẹp của Đảng Cộng sản và con người Việt Nam; giảm bớt sự thù địch, chống
phá của các thế lực phản động.
Có thể khẳng định, thực hiện hiệu quả những nội
dung cơ bản nêu trên không chỉ góp phần tạo thêm uy tín của Đảng, củng cố vững
chắc niềm tin của Nhân dân, mà còn thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng đã đề ra. Trọng tâm là những nhiệm vụ rất quan trọng trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm
100 năm thành lập Đảng: Nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành
nước phát triển, thu nhập cao; xây dựng một nước Việt Nam “giàu mạnh, phồn
vinh, văn minh, hạnh phúc”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, thể
hiện sự nhất quán về quan điểm, chủ trương của Đảng ta về phát triển đất nước
giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045, góp phần tiếp tục bổ sung, phát
triển nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Không còn uy tín là mất niềm tin và mất niềm tin là
mất tất cả, vì vậy đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng phải thực sự
gương mẫu, thực sự liêm chính trong sạch, vững mạnh; đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước phải hợp lòng dân, vì lợi ích của nhân dân, đem lại cuộc sống
khá giả cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân… Thực hiện được những điều
đó, thì Nhân dân sẽ mãi một lòng sắt son đối với Đảng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét