Thứ Năm, 5 tháng 9, 2024

 

LUẬN VỀ KẺ SĨ NGÀY XƯA VÀ NAY

Nói tới kẻ sĩ là nói tới những người có văn hóa và nhân cách ở trình độ cao; kẻ sĩ là người học cao, hiểu rộng. Chữ  cũng có bóng dáng đầu tiên của học trò, nhưng mục đích ở cuối chặng đường học hành lại là làm quan. Tóm lại, chữ  phản ánh một hành trình gồm nhiều chặng, từ lúc đi học đến khi làm quan.

Từ xa xưa, giới trí thức, những người học cao hiểu rộng, có chí khí được nhân dân vinh danh là kẻ sĩ. Danh xưng kẻ sĩ, ngoài ý nghĩa đề cao đạo học và nhân tài, còn là sự gửi gắm, hy vọng, đặt ra yêu cầu cao về nhân cách, cốt cách người quân tử, dù cạm bẫy, cám dỗ thế nào cũng phải luôn giữ lòng ngay thẳng, tôn trọng, đấu tranh bảo vệ lẽ phải. Tuy nhiên, ngày xưa vẫn có kẻ sĩ thuộc hạng “dài lưng tốn vải”, hữu danh vô thực, thường được gọi là “sinh đồ ba quan” mà Phan Huy Chú đã than phiền: “Từ khi kẻ nịnh thần đề nghị đổi phép thi, hạng sinh đồ ba quan đầy cả trong thiên hạ. Người trên do đó lấy tiền mà không ngại, kẻ dưới nộp tiền để đỗ mà không biết thẹn, làm cho trường thi thành ra chỗ buôn bán”.

Trí thức ngày nay cũng có thể xem là kẻ sĩ dù có khác nhau về cái học (nội dung đào tạo, phương pháp rèn luyện, chỗ đứng trong xã hội)… nhưng về vai trò, sứ mệnh đối với xã hội, với nhân tâm, thế đạo thì không khác. Kẻ sĩ hay trí thức mãi mãi là hình thái văn hóa. Lịch sử dân tộc qua các thời kỳ đã chứng minh, hiền tài là nguyên khí quốc gia, là vốn quý của dân tộc. Sự tồn vong của chế độ; cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước phụ thuộc rất lớn vào vai trò của tầng lớp tinh hoa trong đời sống xã hội. Cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) viết: “Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt/ Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên...” (Tước có 5 bậc, sĩ được dự vào bậc nhất/ Dân có 4 loại, sĩ đứng đầu…). Bất cứ triều đại nào muốn phát triển thịnh vượng cũng phải coi trọng chính sách xây dựng, trọng dụng hiền tài.

Cái học ngày xưa có gì khác với cái học ngày nay? Và kẻ sĩ ngày xưa nắm giữ vai trò gì đối với quốc gia, xã tắc? Thời Phong kiến, kẻ sĩ lấy tư tưởng nho giáo để làm cái sự học của mình; lấy Đạo tam cương, ngũ thường là rường cột của mọi mối quan hệ đạo đức – xã hội; đó là những chuẩn mực tất nhiên, bất biến. Trong ba mối quan hệ quân – thần, phụ – tử, chồng – vợ, hai mối quan hệ đầu được kẻ sĩ coi trọng. Kẻ sĩ coi đức trung và đức hiếu là hai giá trị căn bản nhất xác định giá trị của con người. Họ trung thành với vương triều, là mưu sĩ cận thần, là sĩ phu yêu nước, góp phần cùng đế vương “trị quốc, bình thiên hạ”. Trong thời đại ngày nay không còn quan hệ vua – tôi thì đó chính là “lòng trung thành với tổ quốc, với nhân dân và với chế độ đã đem lại độc lập, tự do, cơm ngon, áo đẹp như ngày nay”. Thời nào cũng thế, đã là kẻ sĩ thì phải lấy trung, hiếu làm trọng, phải là những người “giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục”. Đã là kẻ sĩ thì trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải luôn nuôi dưỡng chí khí lớn lao, phải gánh vác trọng trách với non sông đất nước và luôn luôn kiên trì ý chí anh hùng. Kẻ sĩ dám chấp nhận mọi khó khăn để thực hiện bổn phận, trách nhiệm với non sông; có vị trí cao và vai trò quan trọng trong xã hội, có tài trị nước an dân, có bổn phận nặng nề nhưng vẻ vang.

Nước Việt hơn 4000 năm văn hiến có biết bao nhiêu kẻ trí sĩ đem tài năng của mình để kinh bang tế thế, mang cái tài của mình mà trị quốc an dân; biết bao kẻ sĩ dấn thân vì đại nghiệp giải phóng dân tộc, từ bỏ vinh hoa, phú quý để đồng hành cùng dân tộc; góp sức lực và trí tuệ của mình vào sự nghiệp thống nhất nước nhà; ví như giáo sư Trần Đại Nghĩa, kỹ sư luyện kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước từ bỏ nơi gấm hoa để theo Bác Hồ về nước đóng góp vào sự nghiệp chung, đó là rửa mối nhục nô lệ của dân tộc.

Ngày nay đám “kẻ sĩ – trí giả nửa mùa” đó cũng không phải là ít; thậm chí là những kẻ con cháu, dòng dõi thế gia; được đảng nhà nước cho ăn học tử tế, hưởng lương bổng từ ngân sách nhà nước; thậm chí có kẻ còn đương chức, đương quyền nhưng lại trở cờ theo giặc, thường xuyên chống phá sự bình yên của đất nước ta. Bọn chúng ôm dạ phản trắc, thấy lợi nhỏ quên nghiệp lớn, bán rẻ Tổ quốc và luôn có tư tưởng thờ ngoại bang. Nhiều cái tên cũng được xem là “kẻ sĩ” như: Chu Hảo, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A, Nguyễn Đăng Quang, Mạc Văn Trang, Đỗ Ngọc Thống, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Đức Thành, Chu Mộng Long…là những trường hợp điển hình. Chúng lợi dụng những sự kiện được dư luận quan tâm để xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ Đảng và Nhà nước ta, kêu gọi phương Tây can thiệp chuyện nội bộ của Việt Nam. Chúng là lũ lưu manh nhân danh trí trức. Những “kẻ sĩ” này, luôn cho mình là học cao, biết rộng; trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, nhưng có một điều chắc chắc là “trung, hiếu, lễ, nghĩa, trí, tín” những cái làm nền tảng để làm nên kẻ sĩ thì họ lại không hề có. Họ can tâm phò trợ ngoại bang, khúm núm và tôn thờ bọn ngụy quân – ngụy quyền, đám tàn binh, thất tướng đang ngày đêm chống phá đất nước ta.

Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao …, gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng đãi ngộ nhân tài”[1]. Như vậy, mục tiêu lao động và cống hiến của giới trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ trong thời đại ngày nay là sự hòa quyện, phản ánh chân thực và sinh động khát vọng dân tộc hùng cường. Mỗi cá nhân kẻ sĩ là một nhân tố quan trọng cấu thành nguyên khí quốc gia, vốn quý của dân tộc. Mọi tư tưởng, hành động của kẻ sĩ cần đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết và trước hết, hướng đất nước đến phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường. Khi kẻ sĩ mang trong mình cốt cách như cây tùng, cây bách thì chẳng có thế lực nào có thể lôi kéo, chẳng có thủ đoạn nào có thể khuất phục, chẳng có vũ khí nào có thể hạ gục./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét