Thứ Ba, 31 tháng 1, 2023

TƯỚNG GIÁP VĨ ĐẠI NHƯ THẾ NÀO TRONG MẮT NƯỚC NGOÀI?


Những ngày đầu cuộc chiến chống Pháp lần thứ 2, khi các tướng lĩnh Pháp đọc thông tin về tướng Giáp, họ ngạc nhiên và lạ kỳ vì người lãnh đạo quân đội Việt Minh xuất thân từ một thầy giáo dạy lịch sử, từng thi trượt trường Quốc học Huế, chưa từng trải qua một khóa huấn luyện quân sự chuyên nghiệp nào, cũng chẳng đi lên là một chiến binh dạn dày kinh nghiệm và chưa từng tham gia chỉ huy một chiến dịch quân sự lớn cấp trung đoàn với quy mô từ 2000 - 3000 binh lính.
Và có lẽ người Pháp không ngờ rằng, người thầy giáo mà họ đã từng coi thường ấy đã đánh gục họ một cách tâm phục khẩu phục. Nhật báo lớn của Ấn Độ là The Hindu viết rằng, các lãnh đạo quân sự Pháp tự tin rằng họ sẽ chiến thắng khi đối đầu với quân đội du kích Việt Nam trong một trận đánh quân sự thông thường. Việt Minh sẽ thảm bại!
Tháng 05/1950, Sư đoàn 308 của tướng Giáp đã tiến hành một chiến thuật “tàng hình” với 4 tiểu đoàn bộ binh âm thầm leo lên những ngọn núi đá vôi bao quanh cứ điểm Đông Khê cùng với 5 pháo cỡ nòng 75mm. Trước đó, công tác tình báo của Pháp rất chủ quan và họ không nghĩ rằng những người Việt Nam có thể làm được điều này. Sau 2 ngày, tướng Giáp tiếp tục chỉ huy các tiểu đoàn này rút xuống phía dưới để tránh phản pháo, hợp đồng tiến công đ.ánh tan cứ điểm Đông Khê. Lúc ấy, tướng Giáp đã buộc những người Pháp phải đặt câu hỏi rằng: Tại sao ông ấy lại nghĩ ra chiến thuật này và họ dám làm điều này? Những người lính này là những người như thế nào?
Đại tướng Marcel Carpentier với tâm thế thắng trận từ Thế chiến 1 & 2 đã tỏ ra “bề trên” với tướng Giáp. Theo History, Marcel Carpentier đã mang tâm lý kiêu ngạo lây lan sang nhiều sĩ quan Pháp, ông ấy đánh giá quá cao bản thân ông ấy và lính của ông ấy và đánh giá quá thấp những người nông dân dưới sự chỉ huy của tướng Giáp.
Trong 9 năm, từ 1945 - 1954, tướng Giáp đã đối đầu với 7 - 10 vị tướng Pháp và ông đã khiến cho không một vị tướng Pháp nào được nở nụ cười trên đất Việt Nam. Vị tướng cuối cùng so găng với tướng Giáp là Christian de Castries bất lực nhìn những người lính Việt Minh cắm cờ trên nóc hầm chỉ huy ở Điện Biên Phủ. Hơn 2200 lính Pháp t.ử trận, hơn 10.000 lính khác phải trở thành tù binh và đây là thiệt hại lớn nhất của quân đội Pháp từ sau Thế chiến 2 đến thời điểm hiện tại. Trong suốt 9 cuộc chiến, đã có tới 94.000 lính Pháp t.ử trận tại Việt Nam.
Nhà sử học người Pháp Bernard Fall viết rằng không ai ngờ rằng Pháp thất bại tại Việt Nam, đó là thất bại nặng nề đến mức ám ảnh người Pháp, là thiệt hại ở ngoài Pháp nặng nhất từ năm 1749 (một số tài liệu ghi 1759) sau cái chết của thiên tài quân sự Louis-Joseph de Montcalm tại Quebec, Canada. Bernard Fall cũng được cho rằng là người đầu tiên ví tướng Giáp với Napoleon Bonaparte, chính xác hơn là “The Red Napoleon”.
Tạp chí AirForce của Hiệp hội Hàng không Hoa Kỳ viết rằng: “Tướng Giáp là nhà hoạch định chiến lược quân sự vĩ đại nhất kể từ thời Hannibal. Vị tướng này đã xây dựng một đội quân hùng hậu từ 34 chiến binh đầu tiên vào năm 1944. Đến năm 1954, đội quân của ông đã vận chuyển pháo binh lên vùng núi biệt lập ở Điện Biên Phủ và khiến cho quân đội Pháp vốn được trang bị mạnh hơn rất nhiều thất bại nhục nhã”.
Khi đại tướng Võ Nguyên Giáp ra đi vào năm 2013, những tờ báo uy tín bậc nhất thế giới đã dành ông sự “tôn trọng tuyệt đối”. Tờ Washington Post viết: “Tướng Giáp đã đánh bại quân Pháp, quân đội Mỹ tại chiến tranh Việt Nam”. Còn New York Time bình luận: “Tướng Giáp đã hất cẳng Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam”. Còn Telegraph nhận định rằng đại tướng Võ Nguyên Giáp đứng ở vị trí thứ hai sau chủ tịch Hồ Chí Minh, là nhân vật đáng tôn kính nhất Việt Nam hiện tại”.
Tờ Financial Times của Anh Quốc nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Một giáo viên lịch sử tổ chức một cuộc duyệt binh chỉ với 34 thành viên, mặc áo nâu sẫm, đội mũ homburg và đeo s.úng lục nhỏ bên hông. Và đó chính là khởi đầu khiêm tốn của một trong những vị tướng vĩ đại nhất lịch sử thế giới, là kiến trúc sư chính cho sự thất bại của các cường quốc trong thế kỷ 20”.
Nhà sử học người Pháp Hugues Tertrais bình luận rằng tướng Giáp đã châm một ngọn lửa vào thùng th.uốc s.úng h.ủy d.iệt các cường quốc.
Chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến thắng đã đưa tướng Giáp bước vào ngôi đền của những vị tướng huyền thoại và người ta đã công nhận tướng Giáp như là một nhà chiến lược bậc thầy và truyền cảm hứng cho các phong trào giải phóng khắp nơi, từ Việt Nam lan ra khắp châu Á, châu Phi, Nam Mỹ…
Nguồn: Sưu tầm

Những chỉ số hạnh phúc

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, công cuộc xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân thời gian qua đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử, mang lại sự cải thiện rất căn bản.

Về kinh tế: tạo dấu ấn đột phá, trong đó chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm chỉ tăng 3,15% so với năm 2021 (vượt mục tiêu đề ra); năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước... GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110USD, tăng 393USD so với năm 2021.

Về chính trị: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện đồng bộ, mạnh mẽ, hiệu quả. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện với tinh thần kiên trì, kiên quyết “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, góp phần tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Chính những thành quả trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ.

Về văn hóa: Công tác chăm lo, bảo đảm đời sống nhân dân được chú trọng. Các hoạt động văn hóa, xã hội dần sôi động trở lại sau đại dịch; những giá trị văn hóa, đạo đức xã hội, truyền thống gia đình tốt đẹp, gương người tốt, việc tốt tiếp tục được nhân rộng, phát huy. Các chính sách tôn giáo, tín ngưỡng được quan tâm; công tác chăm sóc người cao tuổi, bảo vệ trẻ em, vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới được chú trọng.

Về xã hội: hiện nay tuổi thọ bình quân của Việt Nam đạt 73,7, đứng thứ 87 trên thế giới và cao hơn mức 73 của thế giới. Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên về đích sớm trong thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về giảm nghèo. Đến ngày 30/11/2022, các địa phương đã hoàn thành việc tiếp nhận, giải quyết chi trả hỗ trợ cho hơn 5,2 triệu lượt người lao động và xấp xỉ 123.000 lượt người sử dụng lao động với kinh phí gần 3.741 tỷ đồng. Tính đến 31/7/2022, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 87,6% dân số, chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân của nước ta cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới với 92% dân số có bảo hiểm y tế.

Đến nay, Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch COVID-19. Nikkei Asia (tạp chí uy tín hàng đầu châu Á) đánh giá Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á (đứng thứ 8 thế giới) về đà phục hồi sau đại dịch COVID-19. Hệ thống giáo dục quốc dân phát triển, được UNESCO đánh giá xếp thứ 64/127 nước trên thế giới, bảo đảm cho mọi công dân được thụ hưởng nền giáo dục công bằng và tiến bộ. Trong bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022, Việt Nam tăng 2 bậc, lên vị trí 77 so với năm 2021.

Từ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đến thực tiễn hoạt động đều thể hiện sự quan tâm, chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc nhân dân. Đương nhiên, những hạn chế, tồn tại, những khó khăn trong đời sống kinh tế, xã hội, đặc biệt là tệ tham nhũng, tiêu cực, sách nhiễu, cửa quyền… vẫn là những thách thức lớn ảnh hưởng đến niềm tin của người dân và sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, sự đánh giá cần nhìn về tổng thể và phải thấy được quyết tâm, nỗ lực trong thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Những con số về thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong các năm qua là minh chứng rõ ràng, khách quan bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc. Do vậy, đừng để những định kiến che mờ giá trị thực tại và tương lai, hãy để người dân Việt Nam tự chấm điểm cho hạnh phúc của mình!

Bôi lem hiện thực để chỉ trích “do độc đảng”!

Vẫn là các phát ngôn, bài viết đặt ra những câu hỏi nghi ngờ về tính xác thực trong chỉ số phát triển, từ đó phủ nhận thành tựu các lĩnh vực đời sống xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đạt được trong năm qua. Họ cho rằng các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2022 “chỉ là ảo”, con số tăng trưởng cao là do “Đảng thích số đẹp”! Họ xuyên tạc rằng, người dân vẫn bần cùng, khổ cực rồi suy diễn và quy kết ở Việt Nam “không có hạnh phúc”.

Từ đó, số này tỏ vẻ “quan ngại lo lắng cho đất nước, nhân dân”, kêu gọi người dân muốn ấm no, muốn giàu có thì phải “dũng cảm đấu tranh”! Bằng việc đưa ra những hình ảnh có tính đơn lẻ hoặc cắt ghép, một số bài viết cố tình đánh tráo bản chất, cho rằng đời sống người dân đang ngày càng đi xuống, ngày càng bần cùng khổ cực, các chỉ số phát triển chỉ là “trò mị dân”! Đây thực chất là chiêu trò tạo dựng hình ảnh đối lập giữa sự giàu có và nghèo khổ nhằm kích động chống phá Đảng, Nhà nước, đòi xóa bỏ thể chế chính trị ở nước ta, hướng lái đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc như vậy là vấn đề không mới, những âm mưu, thủ đoạn được dùng đi dùng lại từ năm này qua năm khác, thuộc về bản chất của các thế lực thù địch, tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài. Những ngày đầu năm mới cũng là dịp cả nước kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó những bài viết sai trái, xuyên tạc sự thật, bôi lem tình hình đất nước, các thế lực chống phá tìm cách hướng lái để quy kết các tồn tại, đói nghèo, tình trạng tham nhũng, tiêu cực là “do chế độ đảng trị”, từ đó kích động tư tưởng chia rẽ, bài trừ ngay trong nội bộ. Những bài phỏng vấn hay trò chuyện, đối thoại với “nhà bất đồng chính kiến” cũng chỉ là trò đánh lạc hướng, mục đích nhằm phá hoại sự đoàn kết, chung tay của toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cố tình truyền đi thông điệp sai lệch rằng, đói nghèo là do độc đảng, tham nhũng là do độc đảng, cổ xuý tư tưởng chống phá và làm giảm vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế…

Xây dựng xã hội hạnh phúc là mục tiêu tối thượng

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc...” 1 và xuyên suốt tư tưởng, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng CNXH và khảo cứu thực tiễn xây dựng xã hội trên thế giới cũng như chính từ thực tiễn sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định xây dựng xã hội hạnh phúc là mục tiêu tối thượng của chế độ XHCN ở Việt Nam. Quan điểm về xây dựng CNXH vì hạnh phúc của nhân dân đã được Đảng ta xác định ngay khi ra đời, không ngừng được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Năm 1945, sau khi giành được độc lập, tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam cho đến nay không thay đổi nội dung và hình thức.

Trải qua những khó khăn, thăng trầm, biến cố của lịch sử, Đảng ta vẫn luôn kiên định, quyết tâm xây dựng CNXH vì hạnh phúc cho nhân dân. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã bổ sung, phát triển mô hình CNXH của Việt Nam với những đặc trưng cơ bản, trong đó có đặc trưng: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” 2.

Đến Đại hội XIII, quan điểm xây dựng xã hội hạnh phúc vì con người trở thành một điểm nhấn quan trọng, xuyên suốt trong các nội dung văn kiện. Đại hội khẳng định quan điểm nhất quán: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” 3.

Phát biểu bế mạc Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đại hội chỉ là mở đầu. Còn làm được hay không, mai kia có biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động hay không, có ra của cải vật chất, mang lại giàu có và hạnh phúc cho nhân dân hay không, đấy mới là thành công thực tế của đại hội”. Trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu…”.

Như vậy, chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng khác bản chất so với bản chất của các chế độ xã hội trong lịch sử vì mục tiêu tối thượng là đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hai năm đầu trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng đã cụ thể hóa thành các chủ trương, xây dựng nhiều chính sách trên tất cả các lĩnh vực, tạo tiền đề, cơ sở để nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Về kinh tế: Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhanh, bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XIII của Đảng đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tất cả các nghị quyết đều hướng đến mục tiêu phát triển đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Về chính trị: Tại Hội nghị Trung ương 5, khóa XIII, Đảng ta đã chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Hội nghị BCH Trung ương 6, khóa XIII ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới nhằm hiện thực hóa, cụ thể hóa quyết tâm xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, thực sự dân chủ để phục vụ lợi ích, hạnh phúc của nhân dân.

Về văn hóa: Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030.

Về xã hội: Đảng ta xác định: “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân” 4.


Nhận diện và phòng ngừa các thủ đoạn lợi dụng tôn giáo chống phá Việt Nam hiện nay

 

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, những năm qua, tôn giáo là một trong những nội dung chiến lược được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội (ANCT, TTATXH), tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng coi đó là một yếu tố quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống phá từ bên trong.

Nhận diện các thủ đoạn, phương thức thâm độc

Qua nghiên cứu, có thể khái quát một số thủ đoạn, phương thức cơ bản mà các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo thời gian gần đây để chống phá nước ta như sau:

Một là, chúng tìm mọi cách tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, tích cực thúc đẩy liên kết hoạt động giữa các tôn giáo hòng từng bước biến tôn giáo thành lực lượng chính trị đối trọng với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chúng đẩy mạnh phát triển các hội đoàn tôn giáo, khuếch trương thanh thế, kết hợp với tăng cường truyền đạo trái phép, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Bắc, Tây Nguyên để tập hợp quần chúng, gây áp lực với chính quyền địa phương. Chúng đã lập ra các hội, nhóm liên kết bất hợp pháp núp dưới danh nghĩa tôn giáo như “Hội đồng liên tôn Việt Nam”,“Hội đồng nhân quyền Việt Nam”, “Văn phòng Công lý-Hòa bình”... để lôi kéo, mua chuộc quần chúng, tín đồ nhằm tập hợp lực lượng tiến hành các hoạt động phá hoại ANCT, TTATXH ở một số địa phương. Đáng chú ý, kẻ địch triệt để đẩy mạnh hoạt động lấn chiếm, chuyển nhượng đất đai trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, như: Vụ lấn chiếm đất đai trái pháp luật tại Giáo xứ Sở Kiện (Hà Nam); vụ lấn chiếm, chuyển nhượng đất đai trái phép tại Giáo xứ Xuân Hòa (Bắc Ninh); vụ dòng Thiên An lấn chiếm đất rừng ở Hương Thủy (Thừa Thiên Huế)... Thông qua đó, đòi tư hữu hóa đất đai, gây mâu thuẫn giữa các chức sắc, tín đồ với chính quyền, kích động chức sắc, tín đồ tôn giáo cản trở việc thực hiện chính sách, pháp luật, chống người thi hành công vụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình ANCT, TTATXH tại địa phương...

Hai là, chúng triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc” để thâm nhập, lôi kéo, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng thông qua các tôn giáo đã phát triển ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... thực chất là hình thành các tổ chức phản động chống phá Nhà nước ta. Đáng chú ý, gần đây, tổ chức phản động “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” (CHPC) do A Đảo (Sa Thầy, Kon Tum) làm “Giáo hội trưởng” đã kết nối với các đối tượng trong nước tuyên truyền, lôi kéo chức sắc, tín đồ và người dân tập hợp lực lượng, từng bước công khai hóa hoạt động. Chúng móc nối, lôi kéo, hướng dẫn các tín đồ theo đạo Tin lành thuần túy trong nước tham gia các buổi tập huấn trực tuyến về nhân quyền mà thực chất chính là các buổi đào tạo kỹ năng hoạt động “xã hội dân sự”; hướng dẫn phương pháp thu thập, cung cấp các thông tin sai lệch về tình hình trong nước để xuyên tạc, vu cáo ta trên mạng xã hội và các diễn đàn quốc tế.  

Ba là, lợi dụng thần quyền, giáo lý, giáo luật để kích động, ép buộc đồng bào tôn giáo chống lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; lôi kéo, kích động tín đồ và nhân dân biểu tình, gây rối để lấy cớ can thiệp từ bên ngoài. Đó là những biểu hiện như hoạt động chỉ đạo, kích động chống đối chính sách, pháp luật, bất hợp tác với chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp tại địa phương hay công khai bày tỏ thái độ thách thức chính quyền, coi thường pháp luật, kích động bạo lực, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ta, kêu gọi đa nguyên, đa đảng, lật đổ chế độ...  

Bốn là, triệt để tác động, lôi kéo các chính khách cực đoan trong chính trường một số nước để tác động quốc hội, nghị viện các nước này thông qua các báo cáo, nghị quyết, thông cáo xuyên tạc tình hình tôn giáo, dân tộc ở trong nước, vu cáo Nhà nước vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo. Thông qua các cuộc hợp tác song phương, đa phương giữa Mỹ và các nước đồng minh với Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế-xã hội để gây sức ép với Việt Nam về dân tộc, tôn giáo, tìm cách gắn “các yêu sách về vấn đề tôn giáo, dân tộc”, “dân chủ, nhân quyền” trong quan hệ song phương, đa phương với Việt Nam; từ đó hòng tìm cách can thiệp vào nội bộ nước ta. Ở bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong ráo riết vận động Việt kiều, người nước ngoài ủng hộ kinh phí, vật chất, phương tiện rồi tìm cách đưa vào trong nước để “nuôi dưỡng, hậu thuẫn” các đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn. Chúng còn móc nối với số cơ hội chính trị trong nước thu thập tin tức, tình hình dân tộc, tôn giáo, việc xử lý các đối tượng vi phạm pháp luật, những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo ở địa phương rồi bóp méo, xuyên tạc trên các diễn đàn, trên mạng xã hội, phương tiện truyền thông nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chủ động, đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, đồng bào có đạo và nhân dân tích cực tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội. Các lực lượng chức năng đã kịp thời giải quyết bức xúc trong cộng đồng các tôn giáo và nhân dân, ổn định an ninh trật tự tại địa bàn, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật; tranh thủ được sự ủng hộ của đa số quần chúng và đồng bào các tôn giáo. Các bộ, ngành chức năng và các địa phương đã chủ động rà soát hệ thống pháp luật về tôn giáo hiện hành, xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung, phù hợp thực tế; tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đồng thời, chủ động tuyên truyền đối nội kết hợp với tuyên truyền đối ngoại nhằm tuyên truyền mạnh mẽ về thành tựu của ta trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu, thông tin xuyên tạc tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở trong nước, vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, vi phạm nhân quyền.   

Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo để phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi công tác này phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Trong đó, tiếp tục chú trọng xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là ở cấp cơ sở vững mạnh, trong sạch, thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; giải quyết kịp thời các nguyện vọng chính đáng của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở pháp luật. Tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc của các dân tộc; quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trong đó, tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ; xây dựng LLVT nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.

Các ban, bộ, ngành chức năng cần tiếp tục chủ động, thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc tôn giáo về chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo và âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá ta thông qua nhiều kênh, bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú khác nhau; làm cho tín đồ, chức sắc và người dân hiểu rằng, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật cũng là bảo vệ tôn giáo chân chính và quyền lợi của chính họ. Để từ đó khuyến khích, thúc đẩy nhân dân, tín đồ, chức sắc tự giác tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng tự do tôn giáo vi phạm pháp luật của kẻ địch. Làm tốt công tác nắm tình hình, phát hiện, phối hợp giải quyết kịp thời, dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” liên quan đến dân tộc, tôn giáo, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Chú trọng đẩy mạnh công tác vận động quần chúng và tranh thủ chức sắc tôn giáo, phát huy tác dụng của các đoàn thể tôn giáo yêu nước. Kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi phát triển các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo, tà đạo, đạo lạ, kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng tự do tôn giáo để xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; thông qua các phương tiện thông tin truyền thông, qua kênh ngoại giao, hợp tác quốc tế, làm cho các nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới hiểu đúng, hiểu đầy đủ về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, kết quả xử lý những vụ việc, đối tượng lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật Việt Nam. Đặc biệt, cần tuyên truyền tới đông đảo quần chúng trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng bản chất hoạt động vi phạm pháp luật của các đối tượng lợi dụng tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua. Vận động nhân dân tích cực ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; góp phần đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, vu cáo của những phần tử xấu.

Làm đúng sẽ không bị lợi dụng chống phá

 

Để chuẩn bị cho sự kiện lãnh đạo huyện về thăm, chúc Tết và trồng cây đầu năm, ngay từ trước Tết, ông Tú là Bí thư chi bộ kiêm trưởng thôn đã đích thân chọn một cây được trồng từ lâu, đang xanh tốt ở ngay trong khuôn viên nhà văn hóa thôn và "lệnh" cho chi đoàn thanh niên đào đất xung quanh gốc cây lên, dán giấy sọc xanh đỏ vào cán xẻng, làm bảng biển lưu niệm.

Tất cả đã sẵn sàng... chờ lãnh đạo huyện về trồng cây. Ấy vậy mà, ông Hạnh là cựu chiến binh trong thôn lại có ý kiến phản đối.

- Tôi thấy đồng chí trưởng thôn làm như vậy là hình thức, đi ngược lại với mỹ tục trồng cây đầu năm. Chẳng ai đào đất ở gốc cây đang xanh tốt lên rồi lấp xuống mà gọi là trồng cây cả.

- Bác ơi, đây chỉ là nghi thức. Mình làm vậy cho trang trọng. Ở thôn bên cũng thế. Lãnh đạo huyện về trồng cây, ta phải chuẩn bị chu đáo mới tránh được sơ suất. Các cây khác, ta vẫn triển khai cho nhân dân trồng mới dọc bờ mương mà. Nếu lãnh đạo huyện trồng cây mới mà sau đó cây bị chết thì không hay cho cả xã và thôn, rồi thôn mình còn bị "giông" cả năm bác ạ!

- Tôi không nghĩ vậy anh trưởng thôn ạ! Trồng cây phải đúng nghĩa, anh phải gieo hạt cho cây nảy mầm hoặc trồng cây giống và chăm sóc để cây lớn. Còn đào đất ở cây đã trồng từ lâu rồi lại lấp xuống thì là trồng cây... giả vờ, là đi ngược lại thuần phong mỹ tục!

- Thôi, bác đừng có lý lẽ! Tôi trân trọng bác là một cựu chiến binh, luôn ghi nhận và lắng nghe những gì bác góp ý. Nhưng tôi nói thật, từ trước đến nay, việc gì của thôn cũng bị bác chê bai, phản đối, rồi thành cớ cho người khác hùa vào phê phán cán bộ thôn. Bác đừng cậy mình có chút uy tín mà luôn cản trở những việc chung. Lãnh đạo xã cũng đồng ý chọn cây đó để tiến hành nghi thức trồng, gắn biển rồi.

- Tôi góp ý như vậy, các anh không nghe thì tùy. Nhưng các anh làm việc phản cảm, vô lý thì chính là tạo cớ cho những người chống đối có cái để nói đấy!

Sáng mồng 5 Tết, khi Chủ tịch UBND huyện về chúc Tết bà con ở nhà văn hóa xong, cán bộ xã và thôn dẫn đến gốc cây đã cắm biển trang trọng, sẵn sàng cuốc xẻng, máy ảnh... nhưng đồng chí Chủ tịch UBND huyện xua tay, đi thẳng ra phía bờ mương để cùng trồng cây với bà con.

Thấy cán bộ xã, thôn có vẻ bất ngờ, lúng túng vì tình huống "ngoài kịch bản", Chủ tịch UBND huyện vừa cầm xẻng xắn đất, vừa cười:

- Các đồng chí dựng sân khấu cho tôi diễn kịch trồng cây trước nhân dân thì không được rồi. Làm thế thì không chỉ bà con chê cười mà kẻ xấu còn có cớ để chê bai cán bộ, đảng viên và xuyên tạc bôi nhọ chế độ đấy các đồng chí ạ! Chúng ta cứ người thật, việc thật, làm thật thì nhân dân mới phục và chẳng ai chống phá được.

Chủ động phòng, chống sản phẩm văn hóa xấu độc xâm nhập vào Quân đội

 

Trong bối cảnh hiện nay, ngoài những hiện tượng tiêu cực của xã hội tác động đến tâm lý, tình cảm của bộ đội, các thế lực thù địch cũng ra sức lợi dụng không gian mạng, dùng mọi thủ đoạn tinh vi, thâm hiểm nhằm thẩm thấu những nội dung, sản phẩm văn hóa xấu độc vào môi trường Quân đội, hòng làm cho quân nhân chạy theo ham muốn tầm thường, từ đó nhạt phai lý tưởng, xa rời mục tiêu chiến đấu. Do đó, việc phòng, chống văn hóa xấu độc vào môi trường Quân đội là việc làm quan trọng, cấp thiết hiện nay.

Các sản phẩm văn hóa xấu độc có nguy cơ làm tha hóa nhân cách quân nhân

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế”(1). Đảng ta cũng kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những nhận thức, hành vi phi giá trị, phản văn hóa (gọi chung là sản phẩm văn hóa xấu độc): “Đấu tranh, lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, góp phần xây dựng xã hội an ninh, an toàn, dân chủ, tiến bộ”(2). Điều đó cho thấy, trong tiến trình phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Đảng ta chủ trương thực hiện phương châm vừa “xây”, vừa “chống”; phải kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”. Chính vì vậy, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa xấu độc vào Việt Nam nói chung, vào các đơn vị Quân đội nói riêng là vấn đề quan trọng, cấp thiết hiện nay.

Có thể thấy sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa xấu độc vào đơn vị Quân đội thường thông qua một số con đường sau.

Thứ nhất, xâm nhập thông qua việc quân nhân sử dụng internet và mạng xã hội. Các thế lực thù địch tận dụng tối đa những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại để tán phát sản phẩm văn hóa xấu độc trên internet và mạng xã hội với nhiều chiêu thức mới, tinh vi. Thông qua internet và các nền tảng mạng xã hội mà quân nhân sử dụng, các sản phẩm văn hóa xấu độc trôi nổi tràn lan trên không gian mạng có thể thẩm thấu, tác động và gây ảnh hưởng xấu đến nhân cách quân nhân.

Thứ hai, xâm nhập thông qua hoạt động giải trí vào ngày nghỉ, giờ nghỉ. Tưởng chừng như sản phẩm văn hóa xấu độc không thể xâm nhập bằng con đường này vào đơn vị, nhưng thực tế vẫn xảy ra. Một bộ phận quân nhân vẫn lén lút, tùy tiện nghe, xem các sản phẩm nghệ thuật thiếu lành mạnh như xem phim bạo lực, khiêu dâm, sản phẩm nhạc chế với lời lẽ thô tục.

Thứ ba, xâm nhập khi cán bộ, chiến sĩ được đi phép, tranh thủ, làm nhiệm vụ độc lập và công tác xa. Đây là con đường xâm nhập nhanh nhất, có tính chủ động nhất và ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của nhân cách quân nhân. Sau thời gian dài sống và làm việc trong môi trường chính quy, kỷ luật, khi được đi phép, tranh thủ, nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng thì quân nhân thường tìm cách để “xả hơi” và sẵn sàng tiếp cận, thu nạp các sản phẩm văn hóa xấu độc.

Về phương thức, cơ chế xâm nhập là “mưa dầm thấm lâu”, chủ yếu là bí mật (trong các hội nhóm kín trên các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Facebook, Zalo, Viber, Instagram...) trên điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính xách tay; các sản phẩm văn hóa xấu độc có cơ chế lây lan theo cấp số nhân với tốc độ nhanh và khó kiểm soát.

Các sản phẩm văn hóa xấu độc xâm nhập vào đơn vị Quân đội “ngấm” dần vào tâm lý, sở thích, kích thích những ham muốn vật chất tầm thường của mỗi quân nhân, qua đó từng bước làm thay đổi các thang giá trị phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, làm cho một số quân nhân xao nhãng mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, lơ là chức trách, nhiệm vụ được giao; khơi dậy bản năng thấp hèn, chạy theo lạc thú, lợi ích vật chất tầm thường.

Xây dựng “phòng tuyến” ngăn ngừa sản phẩm văn hóa xấu độc vào môi trường Quân đội

Quân đội là trường học lớn, nơi giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ cả về lý tưởng, phẩm chất, năng lực, lối sống tốt đẹp. Vì vậy, không thể để cho sự tồn tại của sản phẩm văn hóa xấu độc xuất hiện trong môi trường văn hóa quân sự.

Để phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa xấu độc vào môi trường Quân đội hiện nay, trước hết, các đơn vị cần tăng cường giáo dục, bồi đắp giá trị văn hóa làm chuyển biến từ nhận thức tới hành động cho cán bộ, chiến sĩ. Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ”(3), các đơn vị cần tập trung giáo dục lòng tự hào, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và truyền thống lịch sử cách mạng vẻ vang của Quân đội, bồi đắp phẩm chất cao đẹp của người quân nhân cách mạng. Cùng với đó, cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, đấu tranh phê phán những biểu hiện lệch chuẩn, những thói hư tật xấu nảy sinh trong một bộ phận quân nhân.

Việc cần chú trọng hiện nay là các đơn vị tạo ra bước đột phá trong thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về “Phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng, giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ tiếp tục phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Chú trọng đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quân nhân trên từng lĩnh vực công tác; cổ vũ, động viên những cách làm hay, gương người tốt, việc tốt trong giữ gìn, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.

Tiếp tục thực hiện hiệu quả Cuộc vận động “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú trong Quân đội”, đây vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa xấu độc, thực hiện phương châm kết hợp giữa “xây” và “chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Để cuộc vận động đi vào chiều sâu, cần tập trung xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh, phong phú; hướng mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ tới những chuẩn mực giá trị văn hóa trong môi trường quân sự. Xây dựng các quan hệ văn hóa tốt đẹp, trong đó coi trọng các giá trị đạo đức, làm nền tảng vững chắc cho thực hành đạo đức, thực hành văn hóa chính trị của cán bộ, chiến sĩ, mà cốt lõi là quan hệ cấp trên-cấp dưới, quan hệ đồng chí, đồng đội. Tích cực xây dựng cảnh quan môi trường văn hóa hài hòa, thân thiện, tạo nên cả diện mạo cũng như chiều sâu của đơn vị chính quy, vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa lành mạnh, phong phú, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, tiếp nhận, hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của bộ đội.

Nêu gương về văn hóa của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp có tác dụng lan tỏa rất lớn trong giáo dục, định hướng giá trị văn hóa nhân cách của cán bộ, chiến sĩ. Nhận rõ vai trò của nêu gương trong lãnh đạo, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". Bởi vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần thực hiện nghiêm Quy định số 101-QÐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016 về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải không ngừng học tập và thực hành đạo đức cách mạng, đi trước, làm gương cho quần chúng về đạo đức, bản lĩnh, phong cách và tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tạo sự lan tỏa các giá trị văn hóa tốt đẹp thẩm thấu vào nhân cách bộ đội.

Trong tình hình hiện nay, các đơn vị cần phối hợp với địa phương trong phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa xấu độc. Đây là giải pháp nhằm ngăn ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài, kịp thời phát hiện, xử lý các sản phẩm văn hóa xấu độc vào đơn vị. Trên cơ sở tiêu chí chung, các đơn vị cần cụ thể hóa và xây dựng tiêu chí, chuẩn mực đạo đức về văn hóa công vụ cho đơn vị, gắn kết giữa đề cao văn hóa, đạo đức với tuân thủ pháp luật, kỷ luật cho mọi quân nhân. Thực hiện tốt các quy chế, quy định trong giáo dục chính trị, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và các chế độ, quy định của đơn vị, nhất là quy định về tham gia mạng xã hội của quân nhân, giáo dục bộ đội không truy cập trang tin xấu độc, không tán đồng, ủng hộ quan điểm, luận điệu tiêu cực, sai trái trên các trang mạng xã hội.

Phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa xấu độc vào đơn vị Quân đội hiện nay là góp phần lưu giữ và nhân lên giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới, qua đó góp phần “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4) mà Đảng ta đã xác định.

Phủ nhận giá trị văn nghệ kháng chiến cách mạng là có tội với lịch sử

 

Những gì văn nghệ cách mạng đã làm được với đất nước, nhân dân trong cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc không hề cũ vì nó đã khơi dậy sự đồng lòng, tình yêu Tổ quốc, nhân dân; nó có mặt ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc chiến đấu sinh tử ấy. Nền văn nghệ cách mạng vẫn là một trong những điểm tựa cho ý thức dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới.

1. Thời gian qua, có một số người phê phán, thậm chí phủ nhận quan điểm “nghệ sĩ là chiến sĩ, văn nghệ là một bộ phận của công tác tư tưởng-văn hóa Đảng”, vì họ cho rằng do xuất phát từ quan niệm này mà Đảng đã giao cho văn nghệ nhiệm vụ phản ánh những vấn đề của đời sống theo chủ trương của Đảng, chủ trương này đã làm hạn chế, thậm chí tước bỏ sự phong phú, đa dạng của đời sống văn nghệ.

Cần phải hiểu đúng bản chất của quan điểm nêu trên. Chủ trương là thế, còn chất lượng phản ánh thế nào lại phụ thuộc vào tài năng và năng lực sáng tạo của nghệ sĩ, vì trên định hướng ấy, chất lượng sáng tạo của nghệ sĩ rất khác nhau, nó phụ thuộc vào trí tuệ, tài năng, tâm huyết của cá nhân mỗi người. Văn học hiện thực đề cao nguyên tắc phản ánh, tái hiện đời sống dưới góc độ “như bản thân đời sống” và nhiều nhà văn hiện thực đã để lại cho đời những tác phẩm sống mãi với thời gian, đã đụng đến những vấn đề mang tầm vóc nhân loại, được mọi xu hướng khác chủ nghĩa hiện thực coi là mẫu mực của sự phản ánh. Suốt đời L.Tolstoy coi cái thật là cái đẹp, ông tìm kiếm và thể hiện nó theo cách của mình. Văn học cách mạng đề cao phản ánh những tấm gương lao động, chiến đấu vì đất nước, cộng đồng. Cũng không có nghệ sĩ nào cho rằng phản ánh đồng nghĩa với thấy gì ghi nấy, tác phẩm chỉ là sự sao chép đời sống mà thực ra từ bản chất, khi lựa chọn cái gì và phản ánh nó thế nào đã chứa đựng sự đánh giá, lựa chọn. Nhưng chất lượng của sự phản ánh phụ thuộc vào tài năng của nghệ sĩ và yêu cầu phản ánh không hề làm mất đi sự sáng tạo của chủ thể. Vấn đề là ở chỗ, tài năng của nghệ sĩ có đủ sức để phản ánh điều đó sâu sắc, đa dạng, hấp dẫn hay không, chứ không phải ở vấn đề phản ánh.

Có nhà nghiên cứu văn hóa dân gian từng nói, văn học cách mạng ít vấn đề vì nó chỉ lo phản ánh những gì diễn ra trong thực tiễn; ít chiều sâu mở rộng ra các khía cạnh nằm ở tầng sâu dưới bề mặt cuộc sống nên đơn điệu. Ông đã dẫn chuyện “Bà bủ” của nhà thơ Tố Hữu chỉ là một bài thơ mô tả giản đơn một cuộc sống không có xung đột, không ẩn chứa những vấn đề mang ý nghĩa triết học, nhân sinh thì có gì để nghiên cứu?

Thực ra trong bài thơ rất giản dị này của Tố Hữu vẫn phản ánh được mạch ngầm đang diễn ra của đời sống dưới cái bề ngoài giản dị không phải ai cũng nhận thấy; chiều sâu của đời sống, nhận thức và tình cảm con người giấu đi trong những biểu hiện chân chất, bình dị của chính đời sống lúc đó. Nhà thơ không chủ đích nói ra những điều ở đằng sau nhân vật trữ tình có phần đơn giản này, nhưng chỉ riêng sự miêu tả rất đúng tâm trạng của bà mẹ có con đi bộ đội trong một đêm mất ngủ vì lo cho con cũng thấy được cuộc sống đang chuyển động, ý thức con người đang thay đổi. Cái lo của bà bủ bắt đầu từ thương con “đánh giặc đường xa”, rồi đến thương những đồng đội của con mình. Nằm trong nhà nghe gió lạnh thổi ngoài hiên, bà nghĩ ngay đến những thiếu thốn mà con bà và đồng đội của nó đang phải chịu đựng. Cái mưa lạnh từ “chiến khu về” trong ý thức của bà có lý ở chỗ ấy chứ không phải sự gán ghép chính trị. Rồi bà căm thù thằng Tây bởi vì nó mà mẹ con bà xa nhau. Rồi bà tin con bà sẽ trở về. Nếu nhìn từ góc độ ấy (mà đó là điều có thực trong bài thơ, không cần bất cứ sự thêm thắt nào), sẽ thấy rằng văn học kháng chiến đã ghi lại được sự chuyển mình trong nhận thức của những người dân bình thường, điều trước đó chưa có. Đó là chiều sâu giá trị bài thơ “Bà bủ” của Tố Hữu.

Cũng không ai có thể phủ nhận giá trị của bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi bởi những cảm xúc và cách viết mới mẻ, pha trộn giữa nhận thức về chiều sâu của truyền thống, lịch sử với những khát vọng của cả một dân tộc trong cuộc chiến đấu vì hạnh phúc làm người. Cảm hứng làm chủ, tư thế chủ nhân của hình tượng thơ xuyên suốt bài thơ là điểm tựa cho những suy nghĩ, cảm xúc khác về đất nước, dân tộc, con người: Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta/ Những cánh đồng thơm mát/ Những ngả đường bát ngát/ Những dòng sông đỏ nặng phù sa. Điệp khúc “của chúng ta” lần đầu tiên ngân lên với cảm hứng ấy trong thơ lại không mang những phẩm chất mới sao? Trong thơ lãng mạn trước đó vài năm, người ta chỉ thấy tâm trạng cô đơn, chán chường, bế tắc thì những cảm hứng mới này là một luồng sinh khí mới làm thay đổi mạch chủ đạo của thơ ca. Mới về cảm xúc, mới về tình cảm mà nếu không có cuộc cách mạng làm thay đổi địa vị của người dân mất nước thành người tự do thì nhà thơ khó mà viết được thế.

Một vài ví dụ kể trên đều là sự phản ánh, là minh họa cho lòng yêu nước, cho phẩm chất chiến sĩ của người nghệ sĩ. Họ đi sâu vào đời sống, phát hiện ra những nét mới trong đời sống và ghi lại bằng những cảm xúc của mình cho mọi người thấy; động viên, cổ vũ cả dân tộc đứng lên chống kẻ thù chung lại không phải là giá trị sao? Có bao nhiêu nhà văn ở những nền văn học khác ở vào tình trạng tương tự đã làm được điều này?

2. Cùng với hiện thực kháng chiến, các văn nghệ sĩ đã làm một cuộc “lột xác” để về với nhân dân. Họ hiểu ra nhiều vấn đề bản chất của xã hội bất công bắt đầu từ thân phận nô lệ của người dân, từ địa vị mất nước. Họ đứng về phía đám đông một cách tự nguyện, đem ngòi bút của mình phụng sự cuộc kháng chiến kiến quốc theo đúng nghĩa của từ này. Họ hiểu rằng, vai trò chiến sĩ của mình là cần thiết cả ở trên trận tuyến chống quân thù lẫn trong cuộc cách mạng văn hóa là thay đổi ý thức dân tộc, nhận thức của cộng đồng là một sứ mệnh vẻ vang. Về bản chất, từ thời cổ đại, văn nghệ luôn động viên con người đấu tranh chống lại bất công, chống lại cái xấu, cái ác, đề cao những giá trị nhân đạo. Lớp nhà văn đi theo cách mạng nhận thấy giữa lý tưởng xã hội và mục tiêu của văn chương gặp nhau. Để làm tốt điều đó, họ không thể cứ “khép phòng văn hì hục viết” mà phải “từ chân trời một người” đến “chân trời của tất cả”. Đó là một thực tế không thể chối cãi và điều này về bản chất là một bước tiến để đưa văn nghệ về với công chúng, gắn bó văn nghệ với đời sống của đại chúng, đất nước, phụng sự số đông chứ không phải chỉ là thú riêng của một nhóm người sống tách ra khỏi những vấn đề sống còn của xã hội.

Nói như Xuân Diệu thì quãng thời gian để từ chỗ “không quan tâm, không chủ nghĩa” đến chỗ hiểu được rằng: Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu;/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao là đoạn đường bỏ lại những “cái tôi riêng” nhỏ hẹp để đến với “cái ta chung” rộng lớn. Đó là một giá trị mà cuộc sống mới là nhân tố quan trọng thay đổi và đào luyện nên họ. Chính văn nghệ kháng chiến đã từ thực tế mà ghi lại được khoảnh khắc chân dung người lính đạt đến tầm vóc “tạc vào thế kỷ”, là “Dáng đứng Việt Nam” trong giai đoạn hào hùng nhất của lịch sử hiện đại.

3. Lại có người đã khoác cho quan niệm coi “nghệ sĩ là chiến sĩ đồng nghĩa với việc biến họ thành công cụ, thành kẻ phát ngôn cho quan điểm của Đảng, làm cho họ mất tự do, làm cho ngọn lửa sáng tạo trong họ mất đi”.

Nói thế rất võ đoán vì không có căn cứ, chưa nhìn thấy những quy luật sáng tạo đặc thù của văn nghệ; là đồng nhất định hướng tư tưởng chính trị với những quy luật sáng tạo đặc thù. Từ thời cổ đại, chưa bao giờ văn nghệ thoát ra khỏi những ràng buộc của hệ tư tưởng, thể chế. Họ là nghệ sĩ nhưng họ cũng là công dân. Cũng chưa từng có văn nghệ sĩ lớn nào tuyên bố rằng họ viết không bị câu thúc hay ràng buộc bởi các tư tưởng nào.

Đại văn hào H.Balzac (Pháp) từng nói: “Tôi viết dưới ánh sáng của hai chân lý vĩnh cửu: Chúa và nền quân chủ chuyên chế”. Nhà thờ Thiên Chúa giáo đã lập tòa và kết tội chết Galileo chỉ vì ông dám dùng khoa học chứng minh giáo lý về trái đất và sự ra đời của con người trái với những kết luận khoa học. Những nhà văn lớn khác như L.Tolstoy, F.Dostoevsky (Nga) lại không hơn một lần bị chính quyền gây phiền phức, thậm chí bắt bỏ tù vì những quan điểm chính trị, xã hội trái với quan điểm của nhà cầm quyền. Thế mà những người thổi phồng một cách sai lầm về chuyện tự sáng tạo của nghệ sĩ lại cố tình quên đi những sự thực ấy, họ chỉ vin vào một số hạn chế của văn nghệ thời kỳ kháng chiến rồi “kết tội chính quyền, hạ thấp uy tín nhà văn” là không thỏa đáng, trái với bản chất khoa học và cũng rất thiếu nhân văn.

Định hướng về vai trò chiến sĩ của người cầm bút không nên chỉ hiểu họ như một người lính chỉ biết phục tùng mệnh lệnh. Hiểu thế là thô thiển, sai lầm. Người nghệ sĩ thời nào cũng cần đứng ở tuyến đầu trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, trong sự động viên mọi người vươn tới những gì tốt đẹp nhất vì đó là sứ mệnh, thiên chức của họ. Đó là một đòi hỏi chính đáng, là một nhiệm vụ cao cả mà xã hội, bạn đọc giao cho họ và kỳ vọng ở họ. Về bản chất, văn nghệ chân chính phải thuộc loại hàng hóa cao cấp, thuộc giá trị tinh hoa mà từ xưa đến nay chỉ có giới tinh hoa mới có thể dẫn dắt xã hội. Ở thời đại nào cũng thế.

4. Chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc xâm lược không phải chỉ bằng phương tiện mà cái chính vẫn là con người, là tình yêu Tổ quốc, là sự yên ổn trong tâm hồn người lính, họ sẽ trở về vì ở hậu phương người thân của họ đang chờ. Cả hậu phương hướng ra tiền tuyến và ở tiền tuyến, mọi người cũng nghĩ đến hậu phương. Đó là điểm tựa tinh thần quan trọng, là niềm tin để họ chiến thắng. Văn nghệ kháng chiến đã làm được điều này và đó là một giá trị quốc gia, dân tộc, cộng đồng rất lớn, không mấy nền văn nghệ có được.

Cái không khí nhà nhà ra trận, người người ra trận như ở bài thơ “Đường ra mặt trận” của Chính Hữu là thế. Nó không hề giả tạo mà nó nói được cái khí thế cả nước đánh giặc của một thời. Thậm chí, ở một bài thơ về cuộc gặp gỡ tình cờ giữa rừng Trường Sơn của nhà thơ với cô gái trên đường ra trận trong cánh rừng lá đỏ ào ào rụng xuống, không đao to búa lớn gì nhưng người đọc vẫn cảm thấy cả quê hương cùng ra trận và điểm hẹn gặp nhau ở Sài Gòn là hoàn toàn tự nhiên vì đó là cái đích của cuộc chiến, ai ra trận cũng hiểu, ai cũng mong góp phần vào ngày tiến về giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước. Nói như Tố Hữu: “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”, tư tưởng ấy thấm sâu vào mọi người dân, đạo đức xã hội lúc đó là hiểu thấu nghĩa vụ và trách nhiệm trước lịch sử.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, văn nghệ thời kháng chiến cách mạng đã làm rất tốt nghĩa vụ là một bộ phận của cuộc cách mạng và đội ngũ văn nghệ sĩ đã hoàn thành xuất sắc trách nhiệm công dân trước đất nước. Xét từ cơ sở xã hội, tư tưởng triết học đến những vấn đề về đạo đức xã hội hay mỹ học thì văn nghệ cách mạng đã tạo ra những hệ giá trị cho thời đại. Làm được như thế là một kỳ tích của văn nghệ cách mạng. Giá trị ấy không bao giờ cũ.

Hiện nay, chúng ta đang xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong giai đoạn phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc là mục tiêu phấn đấu của cả xã hội, nhưng những đường hướng đến đích cần phải được tất cả mọi người dân đồng lòng. Thực hiện nhiệm vụ này có vai trò to lớn của văn nghệ. Trách nhiệm xã hội và về bản chất của văn nghệ điều này chưa hề cũ.

Chúng ta xây dựng hệ giá trị mới là do yêu cầu của hiện tại và tương lai, nhưng cũng phải căn cứ vào truyền thống để hoạch định bước đi cho cả dân tộc. Có những giá trị chỉ có ý nghĩa trong những thời điểm cụ thể, nhưng cũng có những giá trị không thay đổi. Những gì văn nghệ cách mạng đã làm được với đất nước, với nhân dân trong cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc không hề cũ vì nó đã khơi dậy sự đồng lòng, tình yêu Tổ quốc, nhân dân; nó có mặt ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc chiến đấu sinh tử ấy thì không bao giờ cũ. Nền văn nghệ cách mạng vẫn là một trong những điểm tựa cho ý thức dân tộc trong giai đoạn cách mạng mới.

Đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc

 

Dù thời cuộc có nhiều biến động và thế giới có nhiều đổi thay, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.

Những luận điệu xuyên tạc ác ý, thâm độc

Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược, Đảng ta xác định mục tiêu cao nhất là đấu tranh giành độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền, thống nhất đất nước là lợi ích tối cao của toàn dân tộc. Trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, lợi ích quốc gia, dân tộc được thể hiện bao trùm ở phương hướng-mục tiêu “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa” gắn liền với thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tuy vậy, thời gian qua, trên một số diễn đàn, trên mạng xã hội, trên trang điện tử tiếng Việt của một số cơ quan báo chí, truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam đã xuất hiện những luận điệu sai trái, xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam không quan tâm đến lợi ích chính đáng của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Họ cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đại diện cho lợi ích của một nhóm thiểu số tinh hoa, chứ không đại diện cho lợi ích của quốc gia, lợi ích dân tộc”; “việc Đảng thừa nhận sự tha hóa, biến chất, tham nhũng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chứng tỏ Đảng không đủ tư cách để đại diện cho toàn dân để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”. Có ý kiến còn bình luận “việc Đảng kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là siêu hình, trái quy luật và xu thế phát triển của thế giới”. Lại có ý kiến đưa ra lý lẽ lập lờ rằng, “nội hàm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là mông lung, khó khả thi, vì bảo vệ Tổ quốc chỉ là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, chứ không phải là bảo vệ một đảng phái, một chế độ chính trị nào”. Ác ý và thâm độc hơn, có ý kiến đổ tội cho “chế độ độc đảng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu” (?!). Những ý kiến nêu trên, nếu không cố tình ngụy tạo thông tin, đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất; thì cũng là cái nhìn thiếu khách quan, toàn diện theo kiểu “thầy bói xem voi”, chỉ nhìn cây mà không thấy rừng, thậm chí lồng ghép những lời đơm đặt, xuyên tạc nhằm chống phá, hạ bệ, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. 

Lợi ích của Đảng luôn thống nhất với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, với tư cách là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”, trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

Việc Đảng ta luôn trung thành và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bởi trước hết, Đảng ta là con nòi của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hơn 90 năm qua đã khẳng định, ở Việt Nam, không lực lượng chính trị nào có đủ uy tín, bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi ở nước ta từng xuất hiện một số tổ chức đảng khác nhưng vì không đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, thậm chí có tổ chức đảng còn phản bội, đi ngược lại lợi ích của dân tộc nên tự đào thải và bị lịch sử loại bỏ.

Nhờ lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 3 thập niên đổi mới mà Đảng ta đã chứng minh được vị thế, năng lực cầm quyền của mình, từ đó thuyết phục được nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc, của nhân dân, của quốc gia-đó là bằng chứng sinh động thể hiện “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó cũng là lý do căn cốt, là điểm tựa niềm tin lớn nhất mà nhân dân trao quyền, ủy quyền lãnh đạo của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nói về vai trò của Đảng trong bảo vệ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc không thể không nhắc đến những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Với mức tăng GDP hằng năm trung bình khoảng 7% trong hơn 35 năm qua, hiện nay Việt Nam đứng trong top 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Tính đến năm 2022, quy mô nền kinh tế ước đạt gần 400 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 4.000USD; quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Việt Nam là nơi hội tụ của hàng vạn nhà đầu tư đến từ 140 quốc gia, vùng lãnh thổ, với gần 35.000 dự án FDI đang hoạt động có tổng vốn đầu tư gần 430 tỷ USD. Không chỉ vậy, Việt Nam thuộc nhóm nước đạt mức cao chỉ số phát triển con người (HDI). Năm 2020, tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn quốc tế giảm còn 4,8% (so với 9,9% năm 2016). Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDG-2015 và đang nỗ lực thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững SDG-2030 của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới coi Việt Nam là một hình mẫu đáng tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội.

Vì là một đảng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” nên trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để ngang tầm với sứ mệnh mà nhân dân giao phó. Sai đâu sửa đấy, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết khắc phục, sửa chữa khuyết điểm không chỉ là dũng khí, bản lĩnh của một đảng mác xít chân chính mà còn thể hiện tinh thần cầu thị của Đảng để không phụ lòng tin của nhân dân và dân tộc. Việc Đảng ta kịp thời sửa sai trong chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất những năm 50 của thế kỷ trước; kiên quyết từ bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước và những năm gần đây thực hiện quyết liệt việc thanh lọc, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên sai phạm để làm trong sạch Đảng cũng không ngoài mục đích bảo vệ những lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, bảo vệ sự liêm chính của quốc gia, bảo vệ những thành quả cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam đã chung tay góp sức giành được trong gần 80 năm qua.

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính

Từ bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn đổi mới mạnh mẽ được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, với sự nỗ lực bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đến nay, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định. 

Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và diễn biến khó lường hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định với phương châm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc ở Việt Nam không phải là lợi ích quốc gia, dân tộc hẹp hòi, cực đoan như có kẻ từng rêu rao, xuyên tạc. Bởi lẽ, những năm qua, Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối và Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật luôn xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt trong mối quan hệ hợp tác cùng phát triển, tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Mặt khác, trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, với phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Phương châm này thể hiện nhận thức nhất quán của Đảng là giải quyết hài hòa giữa lợi ích của dân tộc và lợi ích chung của nhân loại, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính của giai cấp công nhân.

Những năm gần đây, uy tín của Việt Nam không ngừng được củng cố, tăng cường trên trường quốc tế khi được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng kinh tế-xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Năm 2020, Việt Nam đồng thời đảm nhiệm 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Từ một nước gần như bị bế quan tỏa cảng, sau gần 4 thập niên, đến nay, Việt Nam đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia, trong đó thiết lập quan hệ ổn định lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện. Đặc biệt, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đã tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Như vậy, từ những cơ sở, thành quả nêu trên, có thể khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, đồng thời đó cũng là bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ.