Thứ Năm, 9 tháng 5, 2024

Giữ vững niềm tin khoa học

 

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc, giả dối, gạt bỏ những luồng thông tin xấu độc làm ô nhiễm môi trường tinh thần của xã hội, chúng ta cần giữ vững niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm cách mạng và trau dồi bản lĩnh chính trị. Đó là ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân.

Niềm tin khoa học là niềm tin dựa trên cơ sở khoa học, nắm vững lý luận khoa học và cách mạng, hiểu biết quy luật để nhận thức đúng xu thế vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử một cách tất yếu, khách quan.

Niềm tin khoa học không tự có sẵn, không hình thành dễ dàng chỉ một lần là xong và có mãi. Nhận thức là một quá trình, từ hiện tượng tới bản chất, từ đơn giản đến phức tạp, không ngừng khám phá, sáng tạo để nắm vững chân lý và hành động tự giác theo chân lý, theo quy luật.

Niềm tin khoa học do đó gắn liền với trình độ học vấn, học thức, với sự trưởng thành của tư duy lý luận, của phương pháp tư duy khoa học. Con người ta không chỉ lĩnh hội tri thức trong sách vở, qua học tập, lại phải có nhu cầu tự học suốt đời, có thói quen tự tu dưỡng, tự rèn luyện như một nhu cầu văn hóa, để tự làm mới nhận thức của mình mà còn phải chú trọng thực hành trong thực tiễn. Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu về tự học-học trong nhà trường, học qua sách vở và nhất là học trong trường đời thực tiễn, học dân, hỏi dân để hiểu dân, tin dân.

Để có niềm tin khoa học, niềm tin của trí tuệ, niềm tin được dẫn dắt và thúc đẩy bởi lý luận khoa học và cách mạng, vượt lên kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, thiển cận, tầm thường, tự thanh toán khỏi mình bệnh giáo điều, sách vở, chủ quan duy ý chí, bệnh hình thức, lý luận suông và cả thói coi khinh lý luận, tự trói buộc mình bởi chủ nghĩa kinh nghiệm... cần phải thực hành lý luận trong thực tiễn và từ thực tiễn mà kiểm chứng lý luận, phát hiện lý luận mới. Người có niềm tin khoa học là người có năng lực sáng tạo, có tinh thần đổi mới và tự đổi mới, nhạy cảm với cái mới, có đầu óc phê phán cái cũ lạc hậu, lỗi thời, cái sai trái, cái giả để khẳng định và tin theo cái đúng, cái tốt, cái thật. Như thế, niềm tin khoa học hội tụ cả năng lực khoa học, cả phẩm chất đạo đức và về mặt giá trị, đó là một giá trị văn hóa, hướng tới chân-thiện-mỹ.

Niềm tin khoa học mang sức mạnh của lý tính, lý trí, tỉnh táo, sáng suốt, được chứng thực, thử thách trong thực tiễn. Vào năm 1959, trong chuyến thăm Indonesia, nói chuyện trước giới trí thức khoa học tại trường đại học ở thủ đô Jakarta, Hồ Chí Minh khiêm tốn nói trước các học giả nước bạn về việc tự học của mình. Người khẳng định rằng, chính thực tiễn cuộc sống và trong đấu tranh cách mạng mà Người lĩnh hội được những tri thức đích thực. Đó là những tri thức đáng tin cậy nhất. Từ trong kháng chiến, khi viết các tác phẩm “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối làm việc”, Người căn dặn chúng ta, về mặt giáo dục và nhà trường, “phải đặc biệt chú trọng dạy và học các môn khoa học về tinh thần và đạo đức”.

Thống nhất lý luận với thực tiễn, theo Hồ Chí Minh là bản chất tối cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là bảo đảm chắc chắn để xây dựng niềm tin khoa học duy vật và biện chứng. Nhờ đó, không trì trệ, bảo thủ, chủ quan, tư biện mà cũng không cực đoan, siêu hình, không phiêu lưu mù quáng. Niềm tin khoa học là cơ sở của lòng trung thành xét về mặt lý luận, của tinh thần lạc quan cách mạng vì giác ngộ chân lý và quy luật, vững tin ở triển vọng tương lai ngay cả khi gặp khó khăn, thử thách. “Thắng không kiêu, bại không nản” là vì vậy. Khi khẳng định: “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”, Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt một niềm tin khoa học mãnh liệt và Người đã gieo niềm tin, truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta. 

Chính nhờ vững vàng, kiên định niềm tin khoa học ấy mà chúng ta tin tưởng ở Đảng khi Đảng quyết định đổi mới và hội nhập. Vào lúc thử thách hiểm nghèo khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu đổ vỡ chế độ XHCN, Đảng ta nhanh chóng đưa ra Cương lĩnh 1991 thay Cương lĩnh 1951, lại được bổ sung phát triển ở Cương lĩnh 2011. Đảng ta khẳng định rằng dù có trải qua những bước quanh co phức tạp nhưng chủ nghĩa xã hội (CNXH) vẫn là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử loài người. Triển vọng tốt đẹp thuộc về CNXH chứ không phải chủ nghĩa tư bản, dù chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại. Tuyên bố chính trị đó của Đảng nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp các lực lượng cách mạng trong nước và có tầm ảnh hưởng quốc tế, củng cố niềm tin khoa học và niềm tự hào chính đáng của chúng ta về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng. Với Đảng, nhờ có niềm tin khoa học mà Đảng ta giữ vững được phương hướng chính trị, có đường lối đúng, đưa nước ta vượt qua khủng hoảng, tồn tại và phát triển như ngày nay. Dân tin Đảng, niềm tin đó của dân được Đảng ta coi là tài sản vô giá phải giữ gìn và phát huy, không được suy giảm, càng không thể mất. Đó cũng là niềm tin khoa học và sự thủy chung của Đảng đối với nhân dân và dân tộc ta.

Văn kiện Đại hội XIII nêu cao khát vọng phát triển đất nước, khơi gợi và phát huy tinh thần cống hiến của mỗi người dân, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, coi trọng công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đó là những quyết sách chiến lược vô cùng quan trọng và cần thiết. Đảng ta cũng nhấn mạnh phải đổi mới mạnh mẽ thể chế phát triển, để thực hiện thành công các đột phá chiến lược đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Niềm tin khoa học cho chúng ta sức mạnh để khát vọng đó trở thành hiện thực.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét