Thứ Hai, 1 tháng 4, 2024

Không thể tồn tại cái gọi là “Công đoàn độc lập” ở nước ta

Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá nước ta trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Lợi dụng tình hình khó khăn về việc làm của người lao động, nhất là công nhân sau đại dịch Covid-19, chúng kích động công nhân, người lao động đẩy mạnh các hoạt động “đấu tranh” đòi tăng lương và bảo đảm các chế độ chính sách tối thiểu, kêu gọi thành lập cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam để bảo vệ quyền lợi của công nhân”.

Đây là mưu đồ rất thâm hiểm nhằm xuyên tạc, hạ thấp vai trò của tổ chức công đoàn các cấp ở nước ta. Vì vậy, bóc trần mưu đồ đó của các thế lực thù địch là vấn đề rất cấp thiết hiện nay, giúp giai cấp công nhân, người lao động nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, yên tâm lao động, sản xuất cải thiện và nâng cao đời sống, tin tưởng vào đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước và vai trò của tổ chức công đoàn các cấp ta đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động nói riêng.

Trong những năm qua, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Với phương châm “tính mạng và cuộc sống của nhân dân là trên hết, trước hết”, Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp đã vào cuộc với nhiều chủ trương, giải pháp phù hợp, với quyết tâm lớn nhằm nhanh chóng đưa các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước hoạt động trở lại trong trạng thái bình thường mới. Trong đó trọng tâm là kiểm soát dịch bệnh và phục hồi sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Do đó, kinh tế - xã hội trong 5 tháng đầu năm 2022 của nước ta tiếp tục khởi sắc trên nhiều lĩnh vực, một số ngành đã có mức tăng trưởng cao hơn so với thời điểm trước dịch Covid-19 xuất hiện. Tuy nhiên, do tác động của tình hình căng thẳng giữa Nga và Ucraine, giá dầu thế giới tăng cao, kéo theo giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu tăng… điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhiều người lao động, trong đó có công nhân. Lợi dụng việc công nhân ở một số địa phương ngưng làm việc tập thể, một số hãng thông tấn nước ngoài như RFA đã phát tán tài liệu “đình công tự phát tăng đột biến” nhằm xuyên tạc, thổi phồng sự thật tình hình ở Việt Nam, hạ thấp vai trò của tổ chức công đoàn Việt Nam. Nguy hiểm hơn, chúng còn kêu gọi thành lập cái gọi là “Công đoàn độc lập” nhằm “thay thế” tổ chức Công đoàn ở nước ta, “đối lập” với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trở lại lịch sử, vào những năm 80 của thế kỷ XX ở Ba Lan, bọn cơ hội chính trị và phản động đã thành lập tổ chức “Công đoàn đoàn kết Ba Lan” đi ngược lại lợi ích và phá hoại phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Ba Lan, dẫn đến việc Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan mất vai trò lãnh đạo và sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan. Từ bài học lịch sử đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: ở Việt Nam hiện nay không cần và không thể có cái gọi là “Công đoàn độc lập Việt Nam” và cũng không thể tồn tại các tổ chức bất hợp pháp đại loại như “nghiệp đoàn độc lập Việt Nam”. Bởi vì, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (Công đoàn Việt Nam) “Là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động”. Trên thực tế gần 93 năm qua, Tổng Liên đoàn Việt Nam cũng như tổ chức Công đoàn các cấp đã phát huy tốt vai trò của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc; thực sự là tổ chức chính trị tin cậy của giai cấp công nhân và người lao động ở Việt Nam.

Hiện nay, Công đoàn các cấp đã và đang phát huy cao độ trong quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng của người lao động. Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, tổ chức công đoàn các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp, các ngành tham gia phòng, chống đại dịch có hiệu quả; thiết thực chăm lo, quan tâm đến người lao động cùng nhân dân cả nước vượt qua đại dịch, ổn định đời sống, phát triển kinh tế - xã hội. Đó là kết quả không thể phủ nhận dưới bất kỳ hình thức nào! Chính vì vậy, ở Việt Nam giai cấp công nhân và người lao động không cần tổ chức gọi là “Công đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi của công nhân tại Việt Nam”. Thực chất, đây là tổ chức mà các thế lực thù địch kích động đòi thành lập nhằm đối lập với Đảng, Nhà nước và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, gây mất trật tự xã hội và cản trở cuộc sống của người lao động ở nước ta. Do vậy, chúng ta phải nâng cao cảnh giác, hết sức bình tĩnh, thường xuyên tuyên truyền đến giai cấp công nhân và người lao động nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, không mắc mưu của chúng, dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước hiện nay./.

Sưu tầm

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội hiện nay cần phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này. Đây là nội dung, biện pháp quan trọng, khâu đột phá căn bản để xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, phương pháp, tác phong công tác ngang tầm nhiệm vụ.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Khẳng định vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”(1). Chính vì lẽ đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, để có tiền vốn của Đoàn thể, Người yêu cầu:

Thứ nhất, phải nhận thức đúng vai trò của đội ngũ cán bộ.

Đội ngũ cán bộ là nhân tố có vai trò quan trọng, quyết định trong việc tổ chức lực lượng quần chúng nhân dân thành sức mạnh để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phải hiểu rõ: “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”; “phải hiểu cán bộ”, “phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng”; phải “khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc”(2).

Thứ hai, phải tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) cán bộ chịu sự tác động của một hệ các nhân tố, gồm hai mặt cơ bản là huấn luyện và học tập, có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, “việc huấn luyện và học tập không phải là một việc đơn giản”. Vì vậy, Người nhắc nhở muốn làm tốt phải huấn và luyện. Huấn là dạy dỗ, luyện là rèn giũa để tạo ra đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Người viết: “Huấn luyện cán bộ là cốt để cung cấp cán bộ cho các ngành công tác: Đoàn thể, Mặt trận, chính quyền, Quân đội. Các ngành công tác như là người tiêu thụ hàng. Ban huấn luyện như là người làm ra hàng. Làm ra hàng phải đúng với nhu cầu của người tiêu thụ. Nếu người ta cần nhiều xe mà mình làm ra nhiều bình tích thì hàng ế”(3).

Thứ ba, phải xác định đúng mục đích, nội dung và có phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, hiệu quả.

Nội dung ĐTBD phải thiết thực và phải lấy ĐTBD về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học lý luận không phải để nói mép, nhưng biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Học là để áp dụng vào việc làm. Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp. Có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để chủ trương cho đúng, làm cho đúng”(4).

Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội hiện nay

Thời gian qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát đối với công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị. Đặc biệt, từ khi thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 20/7/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, vị trí, vai trò của cán bộ chính trị đã được đề cao. Thực tiễn luôn khẳng định và ghi nhận đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội là lực lượng nòng cốt trong tiến hành các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; có vai trò quan trọng đối với việc giữ vững phương hướng chính trị của Đảng trong Quân đội, bảo đảm cho Quân đội luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Theo đó, cấp ủy các cấp thường xuyên chú trọng công tác  ĐTBD; đảm bảo đội ngũ này luôn có số lượng phù hợp, chất lượng cao. Công tác đào tạo cán bộ chính trị được đổi mới theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa”, nội dung, chương trình, hình thức ĐTBD từng bước được đổi mới, chú trọng vào nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực toàn diện, trước hết là năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, nâng cao phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong công tác và lề lối làm việc của cán bộ chính trị đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. 

Bên cạnh những ưu điểm, công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội còn bộc lộ một số hạn chế, đó là: chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn; nội dung, chương trình ĐTBD chậm được đổi mới, bổ sung và cập nhậtcòn trùng lặp nên chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn tiến hành công tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ cán bộ chính trị. Một số cán bộ chính trị chưa thực sự tự giác, tích cực tham gia ĐTBD hoặc có tham gia nhưng chưa thực sự xuất phát từ mục đích tự thân. Chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý đào tạo còn có mặt hạn chế. Chế độ, chính sách còn hạn hẹp với điều kiện thực tiễn xã hội và chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng ĐTBD. Ngoài ra, điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nhiều cơ sở  ĐTBD chưa được trang bị đầy đủ.

Trong thời gian tới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, cán bộ chính trị nói riêng đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính trị trong Quân đội 

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp, thường xuyên nâng cao nhận thức, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị. 

Các cấp ủy đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp cần đề cao trách nhiệm thường xuyên quan tâm, lãnh đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị. Nghiên cứu, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ để xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch, ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị. Coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục làm cho các tổ chức, các lực lượng có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, các mối quan hệ công tác của đội ngũ cán bộ chính trị, từ đó thấu triệt ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị, góp phần nâng cao hiệu lực và vai trò to lớn của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, thực sự là “linh hồn, mạch sống” trong các đơn vị.

Hai là, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng của các nhà trường trong và ngoài Quân đội.

Vận dụng linh hoạt các hình thức ĐTBD tại các học viện, nhà trường với bồi dưỡng, tập huấn cán bộ tại các quân khu và sự tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người, thông qua các hình thức  ĐTBD tại các nhà trường, có hình thức đào tạo cơ bản và bồi dưỡng ngắn hạn, kết hợp giữa hoàn thiện học vấn với bồi dưỡng chức danh cho đội ngũ cán bộ chính trị. Tập trung, chú trọng hình thức đào tạo cơ bản, hệ thống, hạn chế sử dụng các hình thức đào tạo ngắn hạn. Để nâng cao chất lượng ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị, trước hết cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chương trình, nội dung đào tạo; lấy chức trách, nhiệm vụ, yêu cầu phẩm chất năng lực làm căn cứ, chú trọng các nội dung kiến thức hệ thống, bài bản, căn cơ gắn lý luận với thực tiễn sát với từng đối tượng.

Ba là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng và thực hiện tốt chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ chính trị trong Quân đội. 

Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch để ĐTBD, bố trí và sử dụng đúng cán bộ chính trị trong Quân đội. Phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo chất lượng cán bộ. Trong đó, đặc biệt coi trọng khâu đánh giá cán bộ. Bố trí, sử dụng cán bộ chính trị các cấp phải căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ, công tác đặt ra. Kết hợp chặt chẽ việc quy hoạch ĐTBD, bố trí, sử dụng những cán bộ chính trị đủ tiêu chuẩn với việc kiên quyết đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo, quản lý những cán bộ chính trị thiếu và yếu về phẩm chất, năng lực ở những nơi trì trệ, yếu kém, mất đoàn kết kéo dài. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các ngành phải thực sự sâu sát, nắm vững tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của đội ngũ cán bộ chính trị; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khai thác tốt mọi thuận lợi, tiềm năng sẵn có ở các cơ quan, đơn vị, động viên mọi người thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí.

Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng đối với công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các nhà trường quân đội. 

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác  ĐTBD cán bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm sai phạm trong công tác cán bộ. Các cơ quan chức năng làm tốt việc tham mưu đề xuất với cấp ủy, cán bộ chủ trì các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội. Các tổ chức quần chúng thực hiện tốt vai trò tham gia nhận xét, góp ý với cấp ủy đảng; thực hiện chức năng giám sát, góp ý về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống và nêu gương của cán bộ chính trị, là cơ sở cho nhận xét, đánh giá, đề bạt cán bộ đưa vào nguồn đào tạo. 

Quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ở các học viện, nhà trường, trong đó Học viện Chính trị và Trường Sĩ quan Chính trị phải thực sự là những trung tâm hàng đầu về đào tạo cán bộ chính trị trong Quân đội. Chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa; phát triển phẩm chất, năng lực toàn diện cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, các chuyên gia đầu ngành khoa học xã hội và nhân văn quân sự để đáp ứng yêu cầu ĐTBD theo nhu cầu các chức danh cho đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong Quân đội. 

Việc quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác ĐTBD cán bộ là cơ sở quan trọng giúp cho Đảng ta, Quân ủy Trung ương xác định nội dung, phương pháp, hình thức ĐTBD đội ngũ cán bộ chính trị phù hợp, hiệu quả, là lực lượng nòng cốt trong tiến hành công tác đảng, công tác chính trị đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong thời kỳ mới./.

Sưu tầm

Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay - Phần 2

Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để tiếp tục đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay

Một là, trong mọi hoàn cảnh, phải luôn kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây được coi là một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, là nền tảng vững chắc, là điều kiện củng cố vị thế, uy tín của Đảng trong xã hội với tư cách là một đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo, là điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Tổng kết thực tiễn quá trình thực hiện đường đổi mới đất nước, Đảng ta coi sự kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin là bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động”; “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. 

Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức, cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước không ngừng phát triển. Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013; tuyệt đối không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư tưởng chính trị sai trái, thù địch đòi đa nguyên, đa đảng.

Hai là, quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và có hệ thống những di sản tư tưởng, lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh; phải đổi mới tư duy để trở về đúng bản chất hệ thống luận điểm đã hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Điều quan trọng là phải đặt những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cả hệ thống như một chỉnh thể, với quan hệ gắn bó giữa các luận điểm. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở khách quan, dám nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận thách thức, cương quyết phê phán những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin nghĩa là phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng, vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở thực tiễn xây dựng đất nước, phải luôn tìm tòi sáng tạo những giải pháp đặc thù cho sự phát triển đất nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, hình thành những giải pháp hợp lý, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước để từng bước thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người toàn diện. Từ định hướng có tính nguyên tắc chung ấy cần phải cụ thể hóa nhanh chóng thành các chính sách, xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện các chính sách để người Việt Nam ngày càng được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cùng với tiến trình phát triển đất nước.

Ba là, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Đây là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải huy động được sự vào cuộc nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu của các nhà chính trị, nhà quản lý, nhà khoa học… đây sẽ là những người tiên phong trong tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý luận, bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phục vụ trực tiếp, hiệu quả cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo con đường xã hội chủ nghĩa. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. 

Bên cạnh việc khẳng định, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; cần tiếp tục đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Trước hết, cần hệ thống hóa các nội dung đang bị các thế lực chống phá, từ đó xây dựng luận cứ đấu tranh phản bác trên từng vấn đề cụ thể. Đồng thời, chuyển trọng tâm của việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng. Bên cạnh đó, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong học tập, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các tầng lớp nhân dân, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.

Bốn là, đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch. Phải thường xuyên đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động nhận diện thủ đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị, với mưu đồ vu cáo, xuyên tạc, phủ nhận hiện thực lịch sử; đồng thời cảnh giác trước những âm mưu “làm mới” hệ tư tưởng để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với vai trò là nền tảng tư tưởng của Đảng; những thủ đoạn “dân túy”, nhân danh “cách mạng”, “yêu nước”, “lợi ích dân tộc” để kích động, chia rẽ, lôi kéo quần chúng. Ngoài ra, cần xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật đối với những đối tượng có hành vi xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dưới bất kỳ hình thức nào. Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, từng cán bộ, đảng viên của Đảng, trước hết là cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp phải tỉnh táo, thận trọng, sáng suốt và nhạy bén trong nhìn nhận, đánh giá những biểu hiện của các trào lưu tư tưởng phi mácxít, đặc biệt là chủ nghĩa cơ hội, xét lại, từ đó đề xuất chủ trương, biện pháp đấu tranh quyết liệt, phù hợp, kịp thời và hiệu quả, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi là nền tảng tư tưởng của Đảng, là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch trong mọi hoàn cảnh và tình huống. Thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử của gần 40 năm đổi mới đất nước là minh chứng sống động khẳng định trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng; khẳng định vai trò của việc kiên định, nắm vững và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu quan trọng này là điều kiện, tiền đề vững chắc, củng cố niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xác định rõ những yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, với ý chí, khát vọng quyết tâm mạnh mẽ hơn để phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, vững bước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.

Sưu tầm

Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay - Phần 1

Trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động đã và đang tăng cường chống phá, xuyên tạc về nền tảng tư tưởng của Đảng, những thành quả của cách mạng Việt Nam, mỗi cán bộ, đảng viên cần hiểu và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trước các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ trọng yếu, xuyên suốt, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Kế thừa và phát triển quan điểm của Người, Đảng ta khẳng định cách mạng Việt Nam phải luôn: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam”.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác tư tưởng, coi “công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất”. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Đây là học thuyết, là chủ nghĩa duy nhất từ trước đến nay quan tâm đến vận mệnh của các dân tộc bị áp bức, gắn cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, phù hợp với khát vọng của dân tộc ta. Do đó, “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hệ tư tưởng lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin: “Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu”. Đồng thời, Người nhấn mạnh, chủ nghĩa Mác - Lênin không những là kim chỉ nam mà còn là “mặt trời soi sáng” con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là bảo vệ đường lối chính trị của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, là yêu cầu tất yếu của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Người khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Sự ra đời của Đảng ta đánh dấu bước trưởng thành về chất của phong trào công nhân, từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chính nền tảng đó đã giúp cho Đảng hoạch định cương lĩnh, đường lối đúng đắn và hiện thực hóa thành công những mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ chính trị, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn bị các thế lực thù địch và phản động không ngừng xuyên tạc và chống phá quyết liệt. Đặc biệt, vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, trọng tâm là chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam; muốn phủ định, loại bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi đời sống tinh thần của xã hội và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc. Qua nghiên cứu, có thể khái quát, nhận diện các luận điểm sai trái, thù địch trên một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tập trung xuyên tạc để hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin được xây dựng xuất phát từ bối cảnh lịch sử và điều kiện cụ thể của xã hội phương Tây. Vì vậy, không thể hiểu và không thể áp dụng để giải quyết vấn đề của xã hội phương Đông, đặc biệt là của Việt Nam. Theo đó, họ thường xuyên rêu rao các luận đề: học thuyết Mác là sản phẩm của giữa thế kỷ XIX, do vậy đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học; họ cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của Việt Nam… những lập luận này đều sai về cả logic lẫn lịch sử. Bởi tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn mang đặc trưng tích lũy chứ không mang đặc trưng thay thế như kỹ thuật, công nghệ. Trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ và toàn cầu hóa hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin không những không lỗi thời, lạc hậu, mà sẽ tiếp tục đóng vai trò là kim chỉ nam cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các dân tộc trên thế giới.

Thứ hai, tìm cách phủ nhận, hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, có quan điểm so sánh đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ cho rằng, hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với dân tộc Việt Nam; chủ nghĩa Mác -Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất, vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh để thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất của luận điệu này là nhằm chia rẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, cô lập và phá vỡ từng bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng, gây ra sự xáo trộn về ý thức hệ trong các tầng lớp nhân dân.

Thứ ba, các thế lực thù địch tiếp tục tuyên truyền thuyết “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đáng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, họ yêu cầu đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 về hiến định quyền lãnh đạo của Đảng, đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” vì cho rằng “đa nguyên, đa đảng sẽ khơi dậy sự sáng tạo của toàn dân, tốt hơn cho sự phát triển của xã hội”. Bằng luận thuyết, luận điểm này, các thế lực phản động, thù địch muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận những thành quả mà Đảng và dân tộc Việt Nam đã giành được trong 94 năm qua; đồng thời qua đó muốn hợp pháp hóa sự ra đời của các tổ chức chính trị đối lập với Đảng ta. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Thứ tư, phủ nhận bản chất cách mạng, mục tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Họ cho rằng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, chỉ đưa dân tộc vào cảnh “nồi da xáo thịt”, làm cho đất nước ngày càng tụt hậu xa hơn nữa với thế giới và sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông Âu; đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chắp vá, không tưởng. 

Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, thù địch, việc tăng cường đấu tranh để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách, góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, bảo đảm cho việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới đã khẳng định: bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”...(còn tiếp)

Sưu tầm

Học tập phong cách lý luận gắn với thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động giảng dạy của giảng viên lý luận chính trị - hành chính

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một “di sản” đồ sộ, sâu sắc, toàn diện về tư tưởng, đạo đức và phong cách trên nhiều lĩnh vực, phương diện khác nhau, trong đó có phong cách luôn gắn lý luận với thực tiễn. Đến nay, phong cách đó vẫn còn nguyên giá trị, là cơ sở quan trọng để mỗi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị học tập và vận dụng.

Phong cách lý luận gắn với thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Phong cách là những đặc điểm riêng biệt tạo nên giá trị tốt đẹp về lề lối, cách thức, phong thái, phẩm cách… toát lên từ mọi hoạt động của con người. Một người có phong cách mang những giá trị tốt đẹp sẽ có sức “lan tỏa” sâu sắc trong xã hội, không chỉ phản ánh phong cách riêng biệt của cá nhân mà còn là biểu hiện chung về thế giới quan, nhân sinh quan, hệ tư tưởng… của cả lớp người trong xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Đảng ta đã khẳng định: “Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của Người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày. Đó là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn…”. 

Trước hết, phong cách lý luận gắn với thực tiễn là nguyên tắc căn bản trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm không ngừng phát triển lý luận và từng bước biến đổi thực tiễn. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và luôn đặt dưới góc nhìn phát triển không ngừng bằng tư duy độc lập, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển và làm rõ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Theo Người, “Lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những trí thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” nhưng không phải cứ có kinh nghiệm là có lý luận mà phải “đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận, rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Còn thực tiễn là toàn bộ những hoạt động có tính lịch sử - xã hội của con người “là các vấn đề cần mình phải giải quyết, là mẫu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta phải giải quyết”. Từ quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có thể hiểu lý luận được hình thành trên cơ sở thực tiễn, tổng kết thực tiễn và luôn được bổ sung, hoàn thiện từ việc lấy thực tiễn làm thước đo, không ngừng nhìn nhận, đánh giá và tổng kết thực tiễn. Đồng thời, thực tiễn đúng đắn phải được chỉ đạo, dẫn dắt, soi đường bởi một lý luận khoa học, nếu không đó là thực tiễn mù quáng, mất phương hướng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận phải liên hệ với thực tế. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

Với nguyên tắc căn bản từ tư duy đó, trong quá trình tìm đường cứu nước cũng như xây dựng lý luận cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dựa trên “thực tiễn Việt Nam” với khát vọng cao cả là “độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho Nhân dân”. Từ đó Người đã kế thừa, phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh nghiệm lịch sử để nhìn nhận, đánh giá xu thế vận động của thực tiễn và thời đại để xây dựng và hoàn thiện đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp, từng bước giải quyết những vấn đề cụ thể trong những giai đoạn lịch sử nhất định; vừa có tầm nhìn, định hướng lâu dài để dẫn dắt thực tiễn cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Gắn lý luận với thực tiễn không chỉ để đúc kết tạo nên các giá trị lý luận, làm biến đổi thực tiễn, mà với Người còn là những điều giản dị, mộc mạc trong phong cách làm việc và lối sống, sinh hoạt. Đó là phong cách sống và làm việc quần chúng luôn gần  gũi, gắn bó với Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, lấy “ấm no, hạnh phúc” của Nhân dân là “thước đo chân lý” cho lý luận, từ đó không ngừng bổ sung, điều chỉnh về chủ trương, đường lối để cuộc sống nhân dân ngày càng tốt hơn. 

Học tập phong cách Hồ Chí Minh về gắn lý luận với thực tiễn trong hoạt động giảng dạy lý luận chính trị - hành chính 

Thực hiện đường lối của Đảng, thời gian qua việc tăng cường gắn kết giữa lý luận với thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng cả về “lượng” và “chất”. Nhiều giảng viên đã chủ động tìm tòi, nghiên cứu để làm giàu thêm kiến thức, tích cực ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng bài giảng gắn với đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại, tích cực. Nhiều bài giảng có tính lý luận và thực tiễn cao, có sức hấp dẫn, gây chú ý, hứng thú với người học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên, thực tiễn gắn kết giữa lý luận với thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị - hành chính vẫn còn những hạn chế biểu hiện ở những cấp độ khác nhau như: một số giảng viên chưa biết sử dụng, hoặc sử dụng chưa hoàn thiện, hời hợt trong phương pháp, cách thức gắn kết, dẫn đến truyền tải chưa sâu nên không mang lại hiệu quả cao,  chưa nêu bật được tính quy luật của lý luận với thực tiễn và tính sinh động, phức tạp của thực tiễn với lý luận. Một số bài giảng còn mang nặng tính lý luận chung, hàn lâm, cổ điển, chủ yếu chỉ bám vào giáo trình mà thiếu sự phân tích, đánh giá, định hướng về lý luận , không có sự phân tích, dẫn dắt người học nhận thức được tính biện chứng của lý luận và thực tiễn, dẫn đến xơ cứng, nhàm chán vì người học chưa nhìn được cái hay, cái sâu sắc của lý luận và cái sinh động, phong phú của thực tiễn… khiến cho học viên thiếu hứng thú.

Để khắc phục những hạn chế này, cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về gắn kết giữa lý luận với thực tiễn.

Trước hết, giảng viên phải nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, nguyên tắc, cách thức của việc gắn kết giữa lý luận với thực tiễn ngay trong từng bài giảng. Cần xác định việc gắn kết hài hòa giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản trong giảng dạy theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “lý luận phải đi đôi với thực tiễn”; “lý luận liên hệ với thực tế”; “lý luận kết hợp với thực hành”; “học đi đôi với hành”. Mặt khác, việc gắn kết thành công giữa lý luận và thực tiễn trong từng bài giảng sẽ bồi đắp thế giới quan cho người học, củng cố niềm tin, bảo vệ tính đảng, nâng cao bản lĩnh chính tri, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ và giảng viên hiện nay. Đồng thời, gắn kết thành công cũng chính là đổi mới và nâng cao chất lượng giảng dạy góp phần giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ của đổi mới, phát triển đất nước đáp ứng yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới…

“Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết và chỉ đạo thực tiễn để giải quyết hiệu quả những vấn đề thực tiễn đặt ra; thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, xây dựng đạo đức, lối sống theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Góp Phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” (Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư).

Để nâng cao nhận thức của đội ngũ giảng viên, cần tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; các quy định, quy chế liên quan. Đặc biệt, là quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới; Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng. Bên cạnh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW ngày 22/9/2021 về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung… Vì vậy, đội ngũ giảng viên cần nhận thức sâu sắc tinh thần và nội dung từ đó năng động, sáng tạo trong các hoạt động để từng bước nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy.

Thứ hai, nâng cao kiến thức toàn diện và phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo trong việc gắn kết giữa lý luận với thực tiễn.

Để gắn kết thành công giữa lý luận với thực tiễn, đội ngũ giảng viên phải có nền tảng kiến thức toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Kiến thức lý luận trong giảng dạy lý luận chính trị không chỉ là truyền tải đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh nghiệm lịch sử, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; mà còn phải nêu bật được cái hay, cái sâu sắc, cái khoa học để lý luận mang tính định hướng, dẫn dắt thực tiễn… Ngược lại thực tiễn trong giảng dạy lý luận phải làm rõ được sự “biến động đa màu sắc, tính phức tạp ” với những biểu hiện khác nhau, đồng thời thực tiễn cũng là “thước đo” để thấy được cái đúng đắn của lý luận khoa học. 

Muốn vậy, đội ngũ giảng viên phải quán triệt sâu sắc sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, ngăn ngừa các biểu hiện về “kém lý luận, coi khinh lý luận, lý luận suông” hoặc thiếu thực tiễn, xa rời thực tiễn, tuyệt đối hóa thực tiễn… bởi những điều đó dẫn đến căn bệnh giáo điều, sách vở cứng nhắc, chủ nghĩa kinh nghiệm chủ quan, duy ý chí dẫn đến trì trệ, chệch hướng, thậm chí khủng hoảng, sai lầm trong cả hoạt động lý luận và thực tiễn như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Vì vậy, cần phải chủ động học tập nâng cao trình độ lý luận, kết hợp với tìm tòi, nghiên cứu, cập nhật những tổng kết mới về lý luận và thực tiễn từ những công trình nghiên cứu mới, các nguồn tư liệu mới có liên quan. Thường xuyên cập nhật chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến bài giảng... Lý luận là phong phú, thực tiễn lại muôn màu, luôn vận động trong thời đại ngày nay, vì vậy giảng viên phải tăng cường nghiên cứu thực tế, tổng kết thực tiễn, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, thường xuyên tìm hiểu các mô hình, gương thực tiễn, nhận định xu hướng để nắm bắt thực tiễn, mở đường cải biến nhận thức bản thân, từ đó lựa chọn những vấn đề có tính thời sự mà người học quan tâm, những vấn đề thực tiễn đổi mới để lồng ghép trong bài giảng bằng những luận giải sâu sắc, thuyết phục. Các cơ sở đào tạo cần tiếp tục quan tâm đến hoạt động nghiên cứu thực tế, các chương trình tham quan, tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên. Tăng cường các hoạt động giao lưu, hội thảo, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm theo tầng cấp độ, phạm vi khác nhau để bản thân các giảng viên có “không gian” tích lũy và nâng cao kiến thức lý luận và thực tiễn.

Thứ ba, tích cực bồi dưỡng kỹ năng và đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm, phát huy vai trò chủ động, phản biện từ học viên.

Trong giảng dạy lý luận chính trị - hành chính, đội ngũ giảng viên có kiến thức chưa hẳn đã truyền tải thành công các mục tiêu đề ra, nếu thiếu đi các kỹ năng, phương pháp giảng dạy khoa học. Hơn nữa, đối tượng của đào tạo lý luận chính trị - hành chính rất đa dạng, ở các cấp độ, nhận thức, tư duy khác nhau nên giảng viên phải trở thành “cầu nối” để học viên tiếp tục lĩnh hội tri thức phát huy khả năng tư duy, bồi đắp kiến thức, nâng cao nhận thức. Để thực hiện được mục tiêu đào tạo, giảng viên cần nhạy bén, nắm bắt tâm lý người học, đề cao vai trò người học. Đồng thời, chủ động rèn luyện, bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp gắn kết, luận giải, phân tích những vấn đề có tính thuyết phục cao. Có năng lực thu thập, xử lý thông tin, kiến thức chuyển hóa đưa vào bài giảng phù hợp. Tích cực ứng dụng và sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học tích cực, phương tiện dạy học một cách hợp lý, khoa học, hướng đến sự chủ động của học viên trong cách tiếp cận, luận giải và kết luận vấn đề. Cần nghiên cứu kỹ các vấn đề, câu hỏi thảo luận khoa học, phù hợp… hướng đến làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra để gây mâu thuẫn, hứng thú góp phần làm sáng tỏ, cung cấp thông tin để tiếp tục nghiên cứu tổng kết lý luận, đánh giá thực tiễn. Sử dụng hợp lý phương pháp chuyên gia để khai thác tối đa kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm, tư duy lý luận từ học viên. Tăng cường tiếp xúc, trao đổi, thảo luận với học viên để tìm hiểu và nắm bắt nhận thức, tư duy của đối tượng...

Tăng cường gắn kết giữa lý luận với thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị là vấn đề có tính nguyên tắc, cơ bản, lâu dài nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị - hành chính trong bối cảnh mới. Muốn làm được điều đó, từng giảng viên cần khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “… phải biết rằng thực tiễn khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không kịp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi”(6). Vì vậy, từng giảng viên phải ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả, trong đó có phong cách gắn lý luận với thực tiễn để nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị - hành chính đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hiện nay./.

Sưu tầm

Nhận diện luận điệu xuyên tạc chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài

 Ngày 23/6/2004, Bộ Chính trị (khoá IX) đã ban hành Nghị quyết 36 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Gần 20 năm qua, Nghị quyết 36 đã lan tỏa mạnh mẽ, trở thành nhịp cầu góp phần gắn kết chặt chẽ người Việt Nam ở nước ngoài với Tổ quốc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội vẫn tìm cách đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài, kích động chống phá, gây chia rẽ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với Tổ quốc.

Vòng tay gắn kết tình đồng đội

 

Trước khuôn viên đơn vị, Chương trình giao lưu “Vòng tay gắn kết tâm tình đồng đội” do Đoàn cơ sở Trung đoàn 885 (Bộ CHQS tỉnh Quảng Nam) phối hợp với tổ chức đoàn ở các địa phương trên địa bàn đóng quân thực hiện đã để lại ấn tượng sâu đậm cho chiến sĩ mới.

Âm nhạc rộn ràng, cán bộ, chiến sĩ cùng nhau hát vang “Bài ca tuổi trẻ Quân đội nhân dân”. Niềm vui hiện rõ trên từng ánh mắt, nụ cười của hơn 300 chiến sĩ mới (CSM) khi được tham gia giao lưu văn nghệ.

Tại chương trình, cán bộ, đoàn viên đã thưởng thức các tiết mục văn nghệ ca ngợi Đảng, Bác Hồ và tình yêu quê hương, đất nước, được hòa mình vào những điệu nhạc sôi động của tuổi trẻ. Niềm vui được nhân lên khi đơn vị tổ chức sinh nhật đồng đội, chúc mừng hơn 30 đồng chí có ngày sinh trong tháng 3.

Vòng tay gắn kết tình đồng đội

Niềm vui của chiến sĩ mới khi tham gia sinh nhật đồng đội.

Binh nhì KPhu Tạo, chiến sĩ Trung đội 12, Đại đội 3, Tiểu đoàn 72 là một trong số những đồng chí được chúc mừng sinh nhật trong dịp này. KPhu Tạo là người dân tộc Cơ Tu, quê ở thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Nam Giang (Quảng Nam), đã tạm biệt người vợ trẻ và con trai 2 tuổi để lên đường nhập ngũ.

Chia sẻ với chúng tôi, Tạo cho hay, những ngày đầu quân ngũ, nỗi nhớ vợ, thương con luôn thường trực. Bởi vậy, trong chương trình giao lưu, khi được hỏi ước muốn của mình, Tạo vui vẻ thổ lộ muốn được gặp vợ và con. Điều bất ngờ đã được dành tặng CSM khi ban tổ chức kết nối Zalo với vợ của Tạo qua màn hình lớn trên sân khấu. Chứng kiến giây phút KPhu Tạo trò chuyện cùng vợ và con, không gian như lắng lại, mọi người đều xúc động khi nghe những lời tâm sự của vợ chồng chiến sĩ trẻ. 

Tham dự sinh nhật đồng đội trong dịp này, Binh nhì Phạm Công Tiến, chiến sĩ Trung đội 4, Đại đội 1, Tiểu đoàn 72 không giấu được niềm vui. Tiến thổ lộ: “Đây là lần đầu tiên tôi được tổ chức sinh nhật đông vui, ý nghĩa như thế này. Vượt qua bỡ ngỡ của những ngày đầu quân ngũ, được sự chỉ bảo tận tình của cán bộ các cấp, bản thân tôi dần bắt nhịp với nền nếp sinh hoạt ở đơn vị. Nơi đây thực sự trở thành mái nhà chung để chúng tôi luyện rèn. Dù thời gian chưa dài, nhưng tôi cảm nhận được tình đồng đội, sự quan tâm của chỉ huy các cấp thật ấm áp, nghĩa tình”.

Ngoài các CSM được kết nối, nói chuyện trực tiếp qua Zalo, ban tổ chức còn xây dựng các video clip chúc mừng sinh nhật của gia đình, người thân gửi tới các chiến sĩ. Những lời chúc tốt đẹp nhất của bố mẹ, người thân ở hậu phương đã góp phần khích lệ, động viên CSM luôn vững niềm tin, thi đua rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Trực tiếp tham dự, động viên CSM, Trung tá Nguyễn Văn Hoàng, Chính ủy Trung đoàn 885 cho biết: “Hoạt động giao lưu văn nghệ, sinh nhật đồng đội không chỉ tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích cho cán bộ, chiến sĩ mà qua đó tuyên truyền, giáo dục truyền thống vẻ vang của Quân đội, đơn vị, động viên cán bộ, đoàn viên phát huy sức trẻ, lòng nhiệt huyết, sự năng động, sáng tạo, thiết thực chào mừng kỷ niệm 45 năm Ngày thành lập Trung đoàn 885 (15-4-1979 / 15-4-2024) và các sự kiện chính trị, ngày lễ lớn của dân tộc”.

Bài và ảnh: PHAN ĐỊNH

nguồn báo qđnd

Vạch trần các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo gây mất an ninh trật tự ở nước ta

 

Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được quy định cụ thể trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật nước ta.

Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật, có nhiều nguyên nhân dẫn đến một bộ phận nhân dân bức xúc, khiếu kiện kéo dài. Nghiêm trọng hơn, các thế lực thù địch, tổ chức lưu vong đã kích động, lôi kéo người dân lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối an ninh trật tự (ANTT), qua đó thực hiện các mưu đồ chính trị, chống Đảng và Nhà nước ta... 

Truyền cảm hứng sống đẹp cho tuổi trẻ

 

Chương trình sinh hoạt chính trị thông qua chiếu phim “Mùi cỏ cháy” và Tọa đàm “Sáng mãi con đường cách mạng của thanh niên” vừa diễn ra tại Học viện An ninh nhân dân trong không khí hứng khởi, xúc động, để lại ấn tượng tốt đẹp đối với các bạn trẻ.

Trọng pháo xuôi bè

 

Đại tá Đỗ Xuân Dung là người thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông đi bộ đội từ năm 18 tuổi, tham gia nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch, nhưng với ông, ký ức về những ngày tháng chiến đấu ở Điện Biên Phủ sẽ chẳng thể nào quên.

Đêm nay Bác không ngủ

 

Bác ngồi trước đèn trong căn nhà cao ráo giữa rừng Việt Bắc. Đêm nay tấm lòng chứa chan nhân đạo và hòa bình của Bác thổn thức trước nỗi khổ của nhân dân Tây Bắc, nhân dân Điện Biên.

ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH VỀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

 

Lợi dụng những khó khăn của Việt Nam trong phát triển kinh tế-xã hội nói chung, trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo nói riêng trong bối cảnh tình hình thế giới đang có những diễn biến phức tạp, xung đột, khủng bố vũ trang, suy thoái kinh tế… diễn ra trên phạm vi toàn cầu; các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị… đã triệt để lợi dụng internet và mạng xã hội để “tung ra” những thông tin sai sự thật nhằm xuyên tạc, chống phá công tác bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam…

Điện Biên Phủ qua từng trang hồi ức

 

Bảy mươi năm đã trôi qua, những ký ức hào hùng trong trận chiến “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí của Đại tá, cựu chiến binh Lê Khắc Phấn, người lính Điện Biên năm xưa.

Chăm lo nguồn nhân lực cho y tế cơ sở

 

Trong hệ thống y tế ở nước ta hiện nay, y tế cơ sở là tuyến đầu tiên, thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe ban đầu cho nhân dân, nhằm bảo đảm mục tiêu mọi người dân đều được chăm sóc và nâng cao chất lượng sống.

ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


 

Sự ra đời và phát triển của internet cùng những yếu tố, như hạ tầng thông tin, công nghệ... tạo nên không gian mạng, đã và đang giúp tăng khả năng thu thập dữ liệu, lan truyền thông tin, bảo vệ thông tin cũng như làm gián đoạn thông tin, đồng thời tạo ra các cơ hội dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin đến từng người dân ở khắp nơi trên thế giới, cộng đồng quốc tế và quan hệ giữa các chủ thể (nhà nước, phi nhà nước) trong quan hệ quốc tế. Với tốc độ đường truyền nhanh, độ bao phủ rộng và chi phí thấp, các chiến dịch thông tin truyền thông trên các nền tảng mạng xã hội tương tác ở tất cả các cấp độ đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị, an ninh, kinh tế và xã hội trên toàn cầu.