Bãi
Tư Chính là một cụm rạn
san hô ở phía nam Biển Đông,
cách đất liền Việt Nam cách bờ biển Vũng Tàu 160 hải lý và cách bờ biển Đảo Hải
Nam của Trung Quốc hơn 600 hải lý. Theo UNCLOS, một quốc gia ngoài vùng nội
thủy và lãnh hải thì từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, quốc gia
ven bờ được quyền có vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý Bãi dài 63 km, rộng 11 km Phần mặt
bằng rạn quan sát được có diện tích 33,88 km².Nơi nông nhất nằm đầu mút
phía bắc, có độ sâu 16 m.
Về
mặt hành chính, bãi Tư Chính thuộc phạm vi quản hạt của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người ta lắp đặt cấu trúc thép gọi là nhà
giàn DK1 kể từ năm 1989. Về sau, mẫu nhà
giàn được thiết kế lại, rộng rãi và vững chắc hơn, có kết cấu liên hoàn theo
mẫu giàn khoan
nước sâu Hiện có ba nhà giàn đang hoạt động:
-
Nhà giàn DK1/11 (tức nhà giàn Tư Chính C hay Tư Chính 3): hoàn thành 5 tháng 5
năm 1994.
-
Nhà giàn DK1/12 (tức nhà giàn Tư Chính D hay Tư Chính 4): hoàn thành 8 tháng 8
năm 1994.
-
Nhà giàn DK1/14 (tức nhà giàn Tư Chính E hay Tư Chính 5): hoàn thành 20 tháng 4
năm 1995.
Binh
sĩ đồn trú thuộc biên chế Tiểu đoàn DK1, lúc đầu thuộc Lữ đoàn 171 Hải quân
Nhân dân Việt Nam, về sau trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 2
Hải quân. Tại bãi Tư Chính có hai hải
đăng, đều có chiều cao tháp đèn 22 m,
tầm hiệu lực 12 hải lý, ánh sáng trắng. Đặc tính ánh sáng: một hải đăng chớp
nhóm 2, chu kỳ
13 giây; một hải đăng chớp nhóm 3, chu kỳ 8 giây.
Căn
cứ Điều 60 Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) quy định về
các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công
trình ở thềm lục địa,
Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng,
khai thác và sử dụng đảo nhân tạo,
các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS
1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Việt Nam tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía nam
nước này [trong đó có bãi Tư Chính] thành đảo nổi và không gán ghép chúng vào quần đảo Trường Sa,
đồng thời bác bỏ sự gán ghép này.
Theo
Điều 77 UNCLOS 1982, quốc gia ven biển chỉ thực hiện các quyền thuộc chủ quyền
về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Việc quốc gia ven
biển thực thi quyền chủ quyền không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các
quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được UNCLOS thừa nhận. Theo
Điều 79 UNCLOS 1982, các quốc gia khác có quyền lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm
ở thềm lục địa nhưng cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển. Việc Trung
Quốc gây ra sự việc ở bãi Tư Chính mấy tuần qua là
hoàn toàn vi phạm luật pháp quốc tế về biển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét