Đối với một Đảng cầm quyền, khi người bảo vệ hàng đầu cho các
nguyên tắc mà nó dựa vào để sinh tồn và phát triển lại biến thành người đi đầu
phá hoại các nguyên tắc đó, nếu không bị ngăn chặn kịp thời, chính đảng ấy sẽ
đi đến vực thẳm của thảm họa.
Lenin từng nói về vai
trò lãnh tụ của chính Đảng cách mạng như sau: “Trong lịch sử bất cứ một giai
cấp nào, nếu không bầu ra lãnh tụ chính trị và đại diện tiên tiến của mình có
tài vận động, tổ chức và lãnh đạo thì sẽ không thể nào giành được địa vị thống
trị”.
Lịch sử hơn 100 năm qua đã
chứng minh, chính Đảng của giai cấp công nhân trong quá trình lãnh đạo nhân dân
đấu tranh giành chính quyền cần phải có một đội ngũ lãnh đạo kiên trì và không
ngừng phát triển chủ nghĩa Marx, đồng thời phải có tài tổ chức, vận động và
lãnh đạo. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, xây dựng CNXH,
cũng phải có một đội ngũ lãnh đạo kiên trì và phát triển Chủ nghĩa Marx, kiên
trì định hướng XHCN, kiên trì đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, kiên
trì sự lãnh đạo của Đảng.
Trong lịch sử Đảng Cộng sản
Liên Xô, Lenin là tấm gương về lãnh tụ. Lenin tham gia cách mạng từ khi còn
trẻ. Trên con đường đi tìm chân lý, ông đã nhiều lần bị bắt, bị lưu đầy, sau đó
lưu vong ở nước ngoài. Trải nghiệm cách mạng gian khổ đã khẳng định quyết tâm,
ý chí của ông quyết lật đổ chế độ chuyên chế Sa hoàng, phấn đấu không mệt mỏi
cho lý tưởng Cộng sản. Lenin kiên định tin theo và theo đuổi CNCS, điều này gắn
chặt với quá trình không ngừng học tập và nghiên cứu Chủ nghĩa Marx của Lenin,
giúp ông có sự quan sát và dự cảm sâu sắc về đặc trưng tình thế cách mạng và xu
thế phát triển của thời đại bấy giờ. Sau Cách mạng Tháng Hai năm 1917, ở nước
Nga có hai chính quyền cùng tồn tại. Một là chính quyền Xô Viết đại diện cho
công nhân, binh sĩ. Hai là chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản. Khi đó Lenin
đang ở nước ngoài. Ông kiên quyết thực hiện chủ trương: thành quả cách mạng mà
giai cấp công nhân giành được không thể giao lại cho giai cấp tư sản, và Đảng
Bolshevik cần giành lấy chính quyền. Trong khi đó, một số lãnh đạo trong Đảng
Bolshevik lại không đồng ý với lập trường của Lenin. Nhóm Kamenev cho rằng,
Đảng Bolshevik chưa trưởng thành đến độ xây dựng được chuyên chính vô sản, bởi
vậy cần phải ủng hộ chính phủ lâm thời.
Tháng 4/1917, Lenin về Nga.
Tại Đại hội đại biểu ở Petrograd, Lenin trình bày Luận cương tháng Tư, trong đó
đưa ra quyết sách chuyển từ giai đoạn I là cách mạng dân chủ tư sản sang giai
đoạn II là cách mạng XHCN. Nhóm Kamenev và Zinoviev phản đối chủ trương của
Lenin. Nhiều người trong Đảng lúc đầu không hiểu ý đồ chiến lược trong Luận
cương tháng Tư. Ngày 21/4/1917, Ủy ban Petrograd của Đảng Bolshevik thảo luận
Luận cương của Lenin. Molotov kể lại trong hồi ký: Tôi chưa bao giờ phản đối
Lenin, nhưng cho dù là tôi hay bất kì ai đó luôn sát cánh bên Lenin đều không
hiểu rõ ngay ý tứ của ông. Tất cả những người Bolshevik khi đó đều nói về cách
mạng dân chủ tư sản, nhưng Lenin lại nói về cách mạng XHCN. Khi đại đa số các
đồng chí trong Đảng vẫn chưa lĩnh hội được chiến lược do mình nêu ra, Lenin đã
hết sức kiên nhẫn, nhiệt tình trình bày một cách sâu sắc, căn cứ vào tính khách
quan, mục tiêu chiến lược và sách lược, phản bác quan điểm sai lầm của người
phản đối. Qua cuộc luận chiến, các đồng chí nhất thời chưa hiểu ra, đã thay đổi
thái độ. Cuối cùng, Luận cương tháng Tư của Lenin đã được toàn Đảng chấp nhận,
để chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng XHCN.
Trong Đảng Bolshevik, uy tín
của Lenin cao hơn rất nhiều người khác, song ông luôn duy trì nguyên tắc lãnh
đạo tập thể, phát huy trí tuệ tập thể và sức mạnh tập thể. Năm 1921, Lenin đã
viết thư cho Phó ủy viên T.Ư phụ trách ngoại giao của Liên Xô: “Đồng chí đã lặp
lại không dưới một lần rằng, Trung ương chính là tôi, nhưng như thế là đồng chí
đã nhầm. Đồng chí tuyệt đối không nên viết ra những lời như vậy!”. Dưới thời
Lenin, T.Ư Đảng do ông lãnh đạo là tổ chức của những nhà chính trị có niềm tin
mãnh liệt vào CNCS. Volovsky – nhà cách mạng Nga cùng thời với Lenin – đánh giá
về Lenin như sau: “Ông rất giỏi trong việc tập trung kinh nghiệm và tri thức
của từng người giống như tiêu điểm của thấu kính vậy, đồng thời biến chúng
thành tư tưởng chung, khẩu hiệu chung trong phòng thí nghiệm trí tuệ phong phú
của mình”.
Sau khi Lenin qua đời, T.Ư
Đảng cần một người chèo lái mới, và trong các ứng cử viên có Trosky, Bukharin,
Zinoviev, Stalin. Trosky không có một cương lĩnh hoàn chỉnh về xây dựng CNXH,
thậm chí ông còn cho rằng CNXH không thể xây dựng thành công ở Liên Xô.
Bukharin có một hệ thống phương án và chương trình xây dựng CNXH nhưng lại
thiếu khả năng lãnh đạo. Zinoviev không thật sự nổi bật trên cả hai phương diện
lý luận và tổ chức. Stalin mặc dù có những khuyết điểm nhưng ông có niềm tin
chính trị kiên định và ý chí thép, năng lực tổ chức và khả năng vận dụng tổ
chức hơn hẳn người khác. Stalin tham gia cách mạng rất sớm; từ năm 1902 đến năm
1913, từng tám lần bị bắt, bảy lần bị lưu đày, sáu lần trốn thoát khi bị lưu
đày. Cuộc đấu tranh đã tôi luyện nên tính cách kiên cường của Stalin. Từ lúc
tham gia cách mạng cho đến khi qua đời, niềm tin cách mạng của ông không hề
lung lay. Trong suốt thời gian cầm quyền, điểm xuất phát và điểm đích của ông
đều vì sự lớn mạnh của đất nước, vì sự sung túc của nhân dân.
Uy tín của Stalin ngày càng
tăng cao, quyền quyết sách tối cao trong Đảng dần dần tập trung vào tay ông.
Mặc dù Stalin cho rằng sùng bái cá nhân là có hại, thậm chí không thể tha thứ,
thậm chí ông nhiều lần tỏ rõ căm ghét sự sùng bái dành cho ông, nhưng trong
sinh hoạt chính trị của Đảng và Nhà nước, có lúc ông quá tự tin vào trí tuệ của
mình, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Đối với những người không cùng ý
kiến trong tập thể lãnh đạo, có lúc Stalin dùng “bàn tay sắt”, thậm chí đã sử
dụng phương thức đấu tranh tàn khốc. Kết quả là nhìn bề ngoài nội bộ Đảng có vẻ
không có mâu thuẫn, mọi người đồng thuận, song nguyên tắc lãnh đạo tập thể đã
bị vi phạm. Nghị quyết được nhất trí thông qua, song trên thực tế đã biến thành
phục tùng ý chí của cá nhân lãnh tụ.
Mặc dù có những khuyết điểm
nhưng không thể phủ nhận được đóng góp to lớn của Stalin đối với nhân dân Liên
Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô. Kỷ niệm 80 năm ngày sinh của Stalin, Thủ tướng Anh
khi đó là Churchill, phát biểu ý kiến tại Hạ viện, đã đánh giá về Stalin:
“Trong những năm tháng thử thách ác liệt, chính Stalin – vị Thống soái thiên
tài, kiên cường, bất khuất đã lãnh đạo đất nước mình. Đây là niềm hạnh phúc lớn
lao của nước Nga. Stalin là nhân vật kiệt xuất nhất. Ông đã sống cuộc đời mình
trong những năm tháng phức tạp, khó lường, khắc nghiệt, tàn khốc. Ông đã để lại
cho thời đại chúng ta những ấn tượng đáng kính. Lịch sử và nhân dân sẽ không
bao giờ quên một người như thế”.
Sau khi Stalin qua đời, Đảng
Cộng sản Liên Xô từng có thời kỳ đã nhấn mạnh trở lại nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, nhưng sau khi Khrushchev giữ chức Bí thư thứ nhất ĐCS Liên Xô vào năm
1957, quyền lực của Ban Chấp hành T.Ư một lần nữa tập trung vào Khrushchev.
Khrushchev làm công nhân mỏ ở
Ukraine, rồi trưởng thành trong chiến tranh cách mạng và chiến tranh Vệ quốc.
Khrushchev từng có tình cảm trong sáng với cách mạng nhưng lại thiếu tu dưỡng
về chủ nghĩa Marx. Molotov đã đánh giá về Khrushchev: “Ông ấy chưa từng mặn mà
với những khái niệm như thế nào là chủ nghĩa Lenin, thế nào là chủ nghĩa Marx
và cũng chưa từng nghĩ đến. Ông ta bế tắc về lý luận, chính vì vậy ông ta đi
ngược lại với học thuyết về nhà nước và học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ
nghĩa Marx. Tại Đại hội 22, ông ta đã nêu ra lý thuyết sai lầm “Nhà nước toàn
dân”, “Đảng toàn dân”. Cương lĩnh mà ông ta ra sức chủ trương thông qua tại Đại
hội đã hủy bỏ cốt lõi của Chủ nghĩa Marx là chuyên chính vô sản. Ông ta cảnh
báo mọi người không được hấp tấp, nhưng ông ta lại đẩy sự hấp tấp đến mức cực
đoan, tuyên bố rằng “Liên Xô về cơ bản phải xây dựng xong CNCS trong vòng 20
năm”. CNCS của ông ta chẳng qua chỉ là khoai tây cộng với thịt bò mà thôi”. Bắt
đầu từ thời Khrushchev, Đảng Cộng sản Liên Xô dần dần đi xa rời một số nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx, khiến Liên Xô bắt đầu chệch hướng, tạo mầm mống
cho sự sụp đổ. Khrushchev phê phán tệ sùng bái cá nhân, chủ trương xét lại các
sai lầm của Stalin, nhưng ông ta là một phần tử hai mặt, nhiều mưu mô, tham
vọng. Tháng 3/1939, trong 20 phút phát biểu ý kiến tại Đại hội Đảng lần thứ 8,
ông ta đã 32 lần ca tụng Stalin là thiên tài, người thầy, vị lãnh tụ vĩ đại nhất
của nhân loại, vị tướng bách chiến, bách thắng và là… cha đẻ của mình… Hơn mười
năm sau, chính Khrushchev lại là người nguyền rủa Stalin là hung thủ, cường
đạo, tên độc tài lớn nhất trong lịch sử nước Nga… Ông ta trút mọi ngôn từ dơ
dáy lên Stalin, phủ định công lao của Stalin với lịch sử và nhân loại. Nguyền
rủa của ông ta với Stalin thực chất là sự lăng mạ nhân dân và Đảng Cộng sản
Liên Xô, phủ định một số nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Marx – Lenin, CNXH.
Khrushchev phản đối sùng bái cá nhân nhưng chính ông ta lại ra sức sùng bái cá
nhân.
Khi giải quyết những vấn đề
trọng đại liên quan vận mệnh của Đảng và đất nước, Khrushchev thiếu tư duy tỉnh
táo và sự suy xét sâu xa, thường xuất phát từ ý muốn chủ quan, bồng bột nhất
thời, thậm chí dùng biện pháp mạo hiểm cấp tiến để đạt mục đích. Năm 1961,
Khrushchev tuyên bố tại Đại hội 22: Liên Xô đã bước vào thời kỳ triển khai toàn
diện công cuộc xây dựng CNCS, sẽ cơ bản xây dựng xong xã hội cộng sản trong
vòng 20 năm. CNCS mà Khrushchev đề cập không phải là lý luận khoa học của chủ
nghĩa Marx, và hoàn toàn xa rời tình hình Liên Xô lúc bấy giờ. Đến khi
Khrushchev bị hạ bệ, cái gọi là CNCS của ông ta vẫn chỉ là ảo ảnh. Ngày
14/10/1964, Khrushchev từ nơi nghỉ về Moscow chủ trì Hội nghị Đoàn chủ tịch T.Ư
Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại Hội nghị, các thành viên trong Đoàn chủ tịch đã chỉ
trích, phê phán những sai lầm của Khrushchev trong chính sách đối nội, đối
ngoại và ép ông ta tự nguyện về hưu. Khrushchev buộc phải ký vào văn bản từ
chức. Nhà cải cách thô lỗ không có tố chất của một lãnh tụ đó đã bị hạ bệ, mãi
cho đến khi qua đời ông ta vẫn không hiểu nguyên cớ do đâu. Nhà lãnh đạo mới
thay thế là Brezhnev.
Leonid Brezhnev xuất thân từ
một gia đình công nhân ở Ukraina. Thời Stalin, sau khi học xong, Brezhnev làm
quản lý kỹ thuật, rồi trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp. Trong chiến
tranh Vệ quốc, Brezhnev làm lãnh đạo trong quân đội. Sau chiến tranh, ông liên
tục giữ cương vị lãnh đạo Đảng tại địa phương. Có thể nói, Brezhnev đã chấm dứt
sự hỗn loạn từ những cải cách thô thiển, sai lầm dưới thời Khrushchev. Có người
đánh giá Brezhnev là một nhân tài làm việc theo nguyên tắc.
Cũng có người cho rằng,
Brezhnev xử lý công việc khá chắc chắn nên mới duy trì được sự ổn định của Liên
Xô trong 18 năm. Thời kỳ Brezhnev là thời kỳ ổn định hiếm có trong lịch sử Liên
Xô. Trong 18 năm, kinh tế Liên Xô có sự phát triển nhất định, xã hội tương đối
ổn định, đời sống người dân được nâng cao. Nhưng trong thời kỳ này cũng xuất
hiện không ít hiện tượng tiêu cực. Đặc biệt cuối đời Brezhnev, lãnh đạo Đảng
Cộng sản Liên Xô càng ngày càng xa rời sự thay đổi, phát triển của thời đại, xa
rời yêu cầu của quần chúng nhân dân. Trong tư tưởng và hành động, họ tỏ ra bảo
thủ, cứng nhắc, duy trì hiện trạng theo kiểu tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại, thiếu
ý chí cách mạng tiến công.
Đầu những năm 80 của thế kỷ
20, xã hội Liên Xô xuất hiện những dấu hiệu khủng hoảng tương đối nghiêm trọng,
một số mâu thuẫn ngày càng bộc lộ rõ. Tuy nhiên xã hội Liên Xô khi đó tương đối
ổn định, chế độ y tế, giáo dục và dịch vụ công cộng có chất lượng khá cao. Nhân
tài khoa học chiếm ¼ thế giới, Liên Xô trở thành một trong hai siêu cường có vị
trí hàng đầu trên trường quốc tế. Đây là lý do khiến ngày nay không ít người
cho rằng, thời kỳ Brezhnev là thời kỳ người dân có được đời sống tốt nhất. Sau
khi Brezhnev qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô trải qua thời kỳ quá độ tạm thời
dưới sự lãnh đạo của Andropov và Chernenko. Đến tháng 3/1985, quyền lãnh đạo
Đảng Cộng sản Liên Xô chuyển vào tay thế hệ lãnh đạo thứ năm do Gorbachev đứng đầu.
Mikhail Gorbachev sinh ra
trong một gia đình nông dân ở vùng nông thôn Stavropol. Ông ta tốt nghiệp đại
học ở Moskva. Thời trẻ, khi Gorbachev hình thành thế giới quan, cũng là thời kỳ
Khrushchev phủ định hoàn toàn Stalin, phủ định lịch sử của Đảng, chủ trương
Đảng toàn dân và Nhà nước toàn dân. Đối với Gorbachev, điều này để lại một ấn
tượng làm lung lay, thậm chí sụp đổ niềm tin vào lý tưởng Cộng sản. Tháng
3/2001, trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Ngọn hải đăng Nga, Gorbachev nói:
“Chúng tôi là những đứa con của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô.
Lịch sử Liên Xô những năm 60 đã ảnh hưởng rất lớn tới chúng tôi. Thời trẻ chúng
tôi tin theo Đảng, trung thành gia nhập Đảng, nhưng sau Đại hội 20, tư tưởng
của chúng tôi bắt đầu có sự thay đổi“. Từ năm 1993, trong một năm
rưỡi, Gorbachev nhiều lần nói chuyện với nhà hoạt động xã hội Nhật Bản Daisaku
Ikeda. Họ cùng xuất bản cuốn sách Đối thoại, bài học tinh thần
của thế kỷ 20. Trong đó, Gorbachev không chỉ chĩa mũi dùi vào
Stalin mà còn chĩa thẳng vào Lenin, chĩa thẳng vào Marx, vào chủ nghĩa Marx –
một học thuyết đã chỉ rõ quy luật phát triển của xã hội loài người và được thực
tiễn chứng minh là đúng đắn.
Tháng 6/1988, Gorbachev phát
biểu ý kiến: Liên Xô cần thực hiện một nền dân chủ không hạn chế (!). Cũng trong
tháng đó, cái gọi là Tổ chức Phi chính thức tổ chức mít-tinh tại trung tâm
Moskva. Họ giơ biểu ngữ đòi hủy bỏ cơ quan tư pháp và hành pháp của Nhà nước
Liên Xô, đòi có quyền tham gia bầu cử vào Xô Viết, công khai chủ trương thực
hiện đa đảng. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 tổ chức tại Moskva
ngày 28/6 đến 1/7/1988, Gorbachev đọc báo cáo có nhan đề Tình hình thực hiện
nghị quyết Đại hội 27 Đảng Cộng sản Liên Xô và nhiệm vụ đi sâu cải tổ. Ông ta
đưa ra một loạt phương án cải tổ với mục tiêu xây dựng mô hình mới là “CNXH dân
chủ nhân đạo”. Đây thực chất là sự phủ nhận triệt để lý luận cơ bản chủ nghĩa
Marx, áp dụng chế độ chính trị của tư bản phương Tây; thực hiện đa đảng qua cái
gọi là phân chia lại quan hệ quyền lực giữa Đảng với Xô Viết; xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô với tư cách là Đảng cầm quyền, làm lung lay
nền tảng giai cấp và nền tảng xã hội của Đảng. Sau Đại hội này, tính công khai
không hạn chế và dân chủ kiểu phương Tây đã nhanh chóng tạo ra một loạt cái gọi
là các tổ chức độc lập trong đời sống chính trị Liên Xô.
Ngày 28/12/1987, bài xã luận
trên báo Sự thật cho biết: Liên Xô khi đó có trên 30.000 tổ chức đoàn thể phi
chính thức. Những tổ chức này ngang nhiên tuyên truyền chống Cộng, hô hào thành
lập Đảng đối lập và công đoàn độc lập. Ngày 28/6/1988, diễn ra Hội nghị đại
biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô và Hội nghị này trở thành bước
ngoặt cơ bản thay đổi chế độ chính trị của Liên Xô. Trước Hội nghị 19, Đảng
Cộng sản Liên Xô là hạt nhân lãnh đạo của đất nước, Bộ Chính trị là cơ quan
quyết sách tối cao, Ban Bí thư giúp Bộ Chính trị xử lý công tác chính trị, tổ
chức hằng ngày. Sau Hội nghị 19, bộ máy lãnh đạo Liên Xô tiến hành cải tổ, giải
tán 23 ban trước đây trực thuộc T.Ư Đảng. Các cuộc họp của Bộ Chính trị ít dần,
thậm chí mấy tháng không họp. Bộ máy tối cao của Nhà nước cũng khởi động cơ chế
phân quyền nhằm làm suy yếu và để tiến tới phủ nhận vai trò của Đảng. Đảng Cộng
sản Liên Xô mất quyền kiểm soát tình hình. Ngày 25/5/1989, Liên Xô tổ chức Đại hội
Đại biểu nhân dân lần thứ nhất, thực hiện phương án cải tổ của Gorbachev, một
loạt thành viên phe đối lập chính trị trong và ngoài Đảng, tiêu biểu là Boris
Yeltsin, được bầu làm đại biểu nhân dân Liên Xô.
Tại Đại hội đại biểu nhân dân
Liên Xô lần thứ nhất, gần như mỗi thời khắc, mỗi vấn đề đều có sự đấu tranh gay
gắt. Hàng triệu công nhân Nga ngồi xem truyền hình trực tiếp. Những gì họ nhìn
thấy là một cảnh hỗn loạn. Từ tháng 10 đến tháng 12/1989, Đại hội Đại biểu nhân
dân Liên Xô lần thứ hai, các đại biểu của đoàn nghị sĩ khu vực như Sakharov,
Popov một lần nữa kêu gọi đưa việc sửa đổi Điều 6 trong Hiến pháp vào chương
trình nghị sự. Hội nghị toàn thể T.Ư Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 2/1990 là hội
nghị quan trọng của quá trình thực hiện đa đảng. Yeltsin đại diện cho “phe dân
chủ” phát biểu: cần phải chuyển chế độ độc đảng sang chế độ đa đảng, đồng thời
chuẩn bị phối hợp hành động với các chính đảng khác. Gorbachev hoan nghênh quan
điểm này, ông ta nói, cần sửa đổi Hiến pháp Liên Xô, cần hủy bỏ quy định về vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô trong Hiến pháp.
Ngày 12/3/1990, Đảng Cộng sản
Liên Xô tổ chức Đại hội đại biểu bất thường lần thứ ba. Đại hội thông qua nghị
quyết về lập chức tổng thống Liên Xô và luật bổ sung sửa đổi Hiến pháp Liên Xô.
Lời đề tựa, trước hết xóa đi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiên phong
của toàn thể nhân dân, đồng thời nội dung trong Điều 6 của Hiến pháp Liên Xô
cũng bị sửa đổi. Điều này thực chất là xóa bỏ cơ sở pháp lý của việc Đảng Cộng
sản Liên Xô cầm quyền suốt 73 năm kể từ sau Cách mạng Tháng Mười. Hiến pháp sửa
đổi còn thêm một chương về Tổng thống Liên Xô. Sau đó bầu Gorbachev làm Tổng
thống đầu tiên.
Tháng 7/1990, trong Báo cáo
đọc tại Đại hội 28, Gorbachev lại ra vẻ mà nói rằng, Đảng Cộng sản Liên Xô
thông qua bầu cử, giành lấy và duy trì vị thế của Đảng cầm quyền… Thực chất là
che đậy âm mưu của ông ta muốn phá hủy Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau Hội nghị toàn
thể T.Ư tháng 2/1990 và Đại hội đại biểu nhân dân bất thường Liên Xô, vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi sự bảo vệ của Hiến pháp. Trong khi
đó, các tổ chức phi chính thức của phe đối lập chưa đăng ký nhưng đã hoạt động
có tính chất như chính đảng, lại được bảo đảm của Hiến pháp giống như địa vị
của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sau khi lên nắm quyền, Gorbachev cử Yeltsin làm Bí
thư thứ nhất Thành ủy Moskva.
Để có vốn liếng chính trị,
Yeltsin liền mượn danh nghĩa này để công kích tình trạng tham nhũng của tầng
lớp đặc quyền, từ đó ra sức công kích các đồng chí kiên trì đường lối đúng đắn
trong Đảng. Yeltsin chĩa mũi nhọn vào Ban Chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản Liên Xô,
nhất là Ligachev – nhân vật thứ hai trong Đảng kiên trì con đường XHCN. Yeltsin
kiên trì công kích sự chậm chạp trong tiến trình cải cách của Ban Chấp hành T.Ư
Đảng, đồng thời phê phán tác phong làm việc của Ligachev. Tuy nhiên, ông ta đã
gặp phải sự phê phán của hầu hết Ủy viên T.Ư Đảng. Sau đó không lâu, Yeltsin bị
cách chức Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư thứ nhất Thành ủy Moskva,
nhưng Gorbachev vẫn để Yeltsin làm Ủy viên T.Ư Đảng và chuyển sang làm Phó Chủ
nhiệm Ủy ban xây dựng Nhà nước. Ngày 29/5/1990, tại Đại hội đại biểu lần thứ
nhất Liên bang Nga, với 535 phiếu tán thành, 502 phiếu chống, Yeltsin trúng cử
chức Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao Liên bang Nga, với kết quả nhiều
hơn bốn phiếu so với số phiếu luật định. Từ đó ông ta giành được quyền lực cao
nhất.
Tháng 7/1990, Yeltsin tuyên bố
ra khỏi Đảng. Ngày 9/6/1991, Liên bang Nga tổ chức tổng tuyển cử tổng thống lần
đầu tiên, Yeltsin đã đánh bại ứng cử viên Bacatin do Gorbachev đề cử, trúng cử
chức Tổng thống Liên bang Nga. Một tháng 8 ngày sau, tức ngày 20/7/1991,
Yeltsin ban bố sắc lệnh phi đảng hóa và tuyên bố nghiêm cấm hoạt động của các
chính đảng trong cơ quan nhà nước các cấp cũng như các đoàn thể quần chúng và
doanh nghiệp cơ sở, tức là chĩa thẳng mũi dùi vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Ông ta
đã giáng một đòn cuối cùng vào sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và sự giải
thế của Liên Xô. Đối với một Đảng cầm quyền, khi người bảo vệ hàng đầu cho các
nguyên tắc mà nó dựa vào để sinh tồn và phát triển lại biến thành người đi đầu
phá hoại các nguyên tắc đó, nếu không bị ngăn chặn kịp thời, chính đảng ấy sẽ
đi đến vực thẳm của thảm họa.
Theo BÁO NHÂN DÂN

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét