Có thể nói, khái niệm
“Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta
biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của Thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ)
sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga -
Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng
Tháng Mười vĩ đại. Ngược dòng lịch sử, thậm chí nhiều nhà nghiên cứu cho rằng:
“Diễn biến hòa bình” nếu xét ở góc độ mục tiêu, tính chất, nội hàm (bao gồm cả
hoạt động phản gián, lật đổ) thì xuất hiện từ thời Xuân Thu (Thế kỷ VI, trước
Công nguyên), cách đây khoảng 2.700 năm, do Tôn Tử - nhà tư tưởng quân sự nổi
tiếng của Trung Quốc phát kiến và được nêu tại Thiên 13 của cuốn “Binh
pháp Tôn Tử”. Tư tưởng chủ đạo của “Thiên”, hay còn gọi “kế sách” này là
“Bất chiến tự nhiên thành”, có nghĩa “không đánh mà thắng”. Có lẽ cũng vì thế
mà sau này một số người thường gọi “Diễn biến hòa bình” bằng cái tên rất đặc
trưng: “Cuộc chiến tranh không khói súng”. Như vậy, có thể khẳng định: “Diễn
biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế
chính trị; mà đã là chiến tranh thì dù “có khói súng” (bằng quân sự) hay “không
có khói súng” (phi quân sự) cũng đều chung tính chất quyết liệt và chung mục
tiêu là tiêu diệt đối phương bằng sức mạnh “Cứng” hay sức mạnh “Mềm”, hoặc kết
hợp cả hai nguồn sức mạnh “Cứng” và “Mềm”. Chúng ta thấy, ngay từ đầu “Diễn
biến hòa bình” không phải do CNĐQ phát kiến, nhưng hiện đang là “sản phẩm” của
họ và họ có nó trên cơ sở tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận
dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm
giành thắng lợi quyết định trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ
tư tưởng, đối địch.
Không phủ nhận CNĐQ đã
đạt được những thành công nhất định trong việc sử dụng và phát triển chiến lược
“Diễn biến hòa bình”. Trong giai đoạn đầu, từ khoảng thập niên 20 đến thập niên
50 của thế kỷ trước “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ xác định là một giải pháp
quan trọng, giải pháp kết hợp; trong khi giải pháp quân sự, sử dụng sức mạnh
quân sự đóng vai trò quyết định trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của
họ. Đến giai đoạn kế tiếp, từ khoảng thập niên 50 (CNXH đã phát triển thành hệ
thống, gồm 13 nước) đến thập niên 90, cũng như hiện nay, khi điều kiện sử dụng
giải pháp quân sự bị thu hẹp và khó thực hiện, trong khi tiến công CNXH là mục
tiêu ưu tiên hàng đầu, thì “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ đặc biệt coi trọng và
nâng tầm thành chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với việc sử dụng chiến lược
nguy hiểm này, CNĐQ đã gây một loạt sự kiện với cái gọi là “cách mạng màu”,
“cách mạng đường phố”,… mà thực chất là các hoạt động bạo loạn, lật đổ chính
quyền ở một số nước, như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung ga ri,… vào những năm 60, 70
của thế kỷ trước. Đặc biệt, cuối thập niên 80, đầu 90, CNĐQ đã sử dụng chiến
lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá quyết liệt CNXH. Sự sụp đổ chế độ XHCN ở
Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng trong đó có bàn
tay chống phá của CNĐQ. Đáng chú ý là, trong quá trình tiến hành “Diễn biến hòa
bình”, họ thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là “phi chính
trị hóa” quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô hùng mạnh, với bề dày hơn 70 năm
xây dựng bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Biểu hiện cụ thể là, Quân đội xa rời sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, mất phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu
chiến đấu, mục tiêu bảo vệ và cuối cùng Đảng Cộng sản không còn chỗ dựa, không
được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, dẫn tới sụp đổ chế độ XHCN.
Huyênh hoang, tự đắc
với chiến quả giành được và nhằm khuyếch trương chiến lược “Diễn biến hòa
bình”, những quan chức Nhà Trắng và các triết gia của CNĐQ đã cao giọng dự báo
về sự kết thúc của CNXH. Tiêu biểu là Francis Fukuyama - một người Mỹ gốc Nhật
Bản - với bài viết “Sự cáo chung của Lịch sử” được công bố lần
đầu trên Tạp chí “Lợi ích Quốc gia” Mỹ, số mùa hè 1989, sau này được hoàn chỉnh
thành cuốn sách “Sự cáo chung của Lịch sử và con người cuối cùng” xuất
bản năm 1992, phát hành rộng rãi ở 14 nước, với nhiều thứ tiếng khác nhau. Ý đồ
chính trị của cuốn sách được thể hiện rõ: phủ nhận phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác; phủ nhận giá trị tiến bộ và khoa học của ý thức hệ giai cấp
vô sản; tuyên truyền các giá trị của CNTB; luận chứng cho việc thiết lập trật
tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Tương tự như vậy là cuốn “Sự đụng
độ giữa các nền văn minh” của S. Huntington; trong đó, ông ta biện
giải và cho rằng nền văn minh phương Tây là “vô giá”, là “độc nhất vô nhị”.
Điển hình trong số đó phải kể đến Tổng thống Mỹ R. Ních Sơn với cuốn sách “Chớp
thời cơ” và cuốn “Năm 1999 - Chiến thắng không cần chiến
tranh” nêu dự báo đến cuối Thế kỷ XX các nước XHCN còn lại sẽ “tự sụp
đổ”. Đến nay đã giữa thập niên thứ 2 của Thế kỷ XXI, nhưng thực tế thì sao? Mọi
người đã rõ và đều thấy rằng đó chỉ là sự võ đoán, hoàn toàn không có cơ sở,
hay nói cách khác là sự ảo tưởng phi lý, phi thực tiễn.
Nhưng không vì thế mà
chúng ta mất cảnh giác và xem nhẹ “Diễn biến hòa bình”, đặc biệt là thủ đoạn
“phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Bởi lẽ, chống phá các
nước XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH, trong đó có nước ta, luôn là mục tiêu nhất
quán, xuyên suốt của CNĐQ. Chừng nào CNĐQ còn tồn tại thì chừng đó họ còn giữ
và theo đuổi mục tiêu đó. Tuy nhiên, tham vọng là một việc, còn đạt được hay
không lại là việc khác. Hơn nữa, quyền quyết định trong vấn đề này là ở chúng
ta chứ không phải họ, nên cho dù âm mưu của họ có thâm hiểm đến đâu, thủ đoạn
có tinh vi, xảo quyệt đến nhường nào thì cuối cùng cũng không tránh khỏi thất
bại.
Đối với nước ta, ngay
sau khi kết thúc “Chiến tranh Việt Nam” - theo cách gọi của người Mỹ, và cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược - theo cách gọi của nhân dân Việt Nam, họ
đã nhanh chóng tiến hành một cuộc chiến tranh mới “không khói súng” - “Diễn
biến hòa bình”. Ngoại trưởng Mỹ Kitxinhgơ khi đó đã ngạo mạn tuyên bố: “Chúng
ta thất bại trong chiến tranh, nhưng sẽ giành chiến thắng trong hòa bình”. Để
hiện thực hóa tham vọng, họ đã liên tục tiến hành các hoạt động chống phá cách
mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa -
xã hội, quốc phòng - an ninh,… bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; trong đó,
thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội.
Đáng chú ý là những năm gần đây, lợi dụng việc nước ta mở cửa, hội nhập quốc
tế, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,… họ đã sử dụng những hình
thức, thủ đoạn mới hết sức tinh vi, thâm độc, nguy hiểm, hòng gây chia rẽ, mất
đoàn kết nội bộ, tạo khủng hoảng niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ XHCN. Đặc biệt, nhằm thúc đẩy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ
trang, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân - công cụ bạo lực bảo vệ
chế độ XHCN ở nước ta - họ đã phối hợp hoạt động các lực lượng phản động trong
và ngoài nước để chống phá toàn diện, kể cả từ hệ thống pháp luật Nhà nước.
Điển hình là, lợi dụng việc Đảng, Nhà nước và Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân
dân tham gia sửa đổi Hiến pháp cũng như hiện nay đang tổ chức thực thi Hiến
pháp mới, các thế lực thù địch, phản động đã ra sức chống phá dưới dạng tham
gia “góp ý”, “kiến nghị”,… trong đó trắng trợn đòi bỏ Điều 4 của Chương I, đòi
bỏ hiến định “Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; rằng, cần phải sửa Chương IV -
“Bảo vệ Tổ quốc” với biện giải lố bịch: “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với
Tổ quốc và nhân dân, theo đó chỉ có chức năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân,
chứ không có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước hay bất cứ tổ chức chính trị nào”;
rằng, “Quân đội không chịu sự lãnh đạo của Đảng”. Rõ ràng đây là những luận
điểm hết sức phản động, hoàn toàn trái với cơ sở lý luận, thực tiễn. Thế nhưng
đáng quan ngại là, không phải ai cũng thấy, trong đó có một số ít người do
thiếu thông tin và nhận thức hạn chế đã ngộ nhận, cả tin, thậm chí bị “thuyết
phục” bởi những luận điệu tuyên truyền độc hại đó. Cũng không nằm ngoài mưu đồ
“phi chính trị hóa” quân đội, họ còn sử dụng thủ đoạn “vàng thau lẫn lộn”, đánh
đồng sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam với binh
sĩ quân đội Ngụy quyền Sài Gòn, bằng cách ngụy biện: “họ đều hy sinh vì Tổ
quốc, bảo vệ Tổ quốc”, từ đó đòi Nhà nước ta ghi công và cho hưởng chế độ liệt
sĩ. Thật nực cười, phi lý! Điều đó cho thấy, các thế lực thù địch không từ bất
cứ một thủ đoạn nào hòng đạt cho được mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội. Và,
khi không thực hiện được, họ dở chiêu bài bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín của
Quân đội. Cho nên chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa
bình”, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch,
đồng thời gắn liền với đó, xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị là vấn đề đặc
biệt quan trọng, cấp thiết hiện nay.
Thực chất đây là mối
quan hệ giữa “bảo vệ và xây dựng”; trong đó, mỗi nội dung có nội hàm riêng,
nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Khi giải quyết
vấn đề này, cần gắn chặt hai nội dung, không được xem nhẹ bất cứ nội dung nào.
Sẽ là không đúng, nếu chúng ta chỉ chú trọng một chiều đến yếu tố “bảo vệ”, tức
là đấu tranh chống “phi chính trị hóa” quân đội, mà xem nhẹ yếu tố “xây dựng”,
mà ở đây là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị; tương tự như vậy, nếu chỉ
xem trọng yếu tố “xây dựng”, mà không quan tâm đúng mức đến yếu tố “bảo vệ”
cũng là sai. Phương pháp nghiên cứu, xem xét và giải quyết đúng đắn vấn đề này
là, phải trên cơ sở tư duy biện chứng, khoa học; coi trọng giải quyết đồng bộ
cả hai nội dung: đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của
các thế lực thù địch và đẩy mạnh xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét