Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2024

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam trong quan hệ quốc tế ngày nay

 


Đối với mỗi quốc gia có chủ quyền trên thế giới, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề có tính nguyên tắc, “bất biến” trong quan hệ quốc tế. Lợi ích quốc gia - dân tộc được cho là hàm chứa cả các mục tiêu chiến lược của quốc gia trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Theo đó, việc xác định, bảo đảm và tối đa hóa lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

Hiện nay, bối cảnh mới của đất nước ta trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế và những chi phối, tác động mạnh mẽ của dòng chảy thời đại đặt ra cho cách mạng Việt Nam những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực từ việc thực thi chính sách vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh quyết liệt; sự hình thành các cặp quan hệ chiến lược chi phối đời sống chính trị quốc tế cùng với quá trình xây dựng và điều chỉnh quan hệ quốc tế thông qua hệ thống luật pháp quốc tế; sự đan xen lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh khiến lợi ích của mỗi lĩnh vực không thể phân định một cách rạch ròi; yêu cầu đòi hỏi cấp bách trong việc tiếp cận, bắt nhịp sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động tiêu cực từ mặt trái của nó. Các yếu tố đe dọa bất ổn, như: chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa dân túy… ngày càng gia tăng; các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: dịch bệnh, thiên tai, an ninh mạng, khủng bố… diễn biến phức tạp, tiềm ẩn yếu tố đe dọa khủng hoảng toàn diện trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, còn có những thách thức từ chính những hạn chế, thiếu sót trong quá trình đổi mới đất nước chưa được giải quyết triệt để. Trước tình hình đó đòi hỏi nước ta phải xác định, bảo đảm và tối đa hóa lợi ích quốc gia - dân tộc trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế.

Về lợi ích quốc gia - dân tộc

Lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề vô cùng hệ trọng của mỗi quốc gia trong hoạch định, thực thi chiến lược, chính sách phát triển, bảo vệ đất nước và hợp tác quốc tế. Ngày nay, lợi ích giữa các quốc gia ngày càng đan xen trên cơ sở vừa hợp tác, vừa cạnh tranh quyết liệt trong cục diện thế giới mới với các xu thế lớn là toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; hòa bình, hợp tác và phát triển, song cũng chứa đựng bất ổn, xung đột dưới nhiều hình thức, phức tạp. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia đã công khai quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc.

Ở Việt Nam, một số chuyên gia cho rằng, khái niệm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc mặc dù có những điểm khác nhau, song được xem là có chung nội hàm và có thể sử dụng thay thế lẫn nhau. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của cộng đồng những người sống trên một đất nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục, tập quán và phần nhiều còn chung cả tiếng nói, chữ viết(1). Lợi ích quốc gia thiên về đại diện của giai cấp cầm quyền(2). Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia - dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc(3). Lợi ích dân tộc là lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước(4). Do những điều kiện đặc thù nên khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam có hướng tổng hợp cả hai khái niệm trên(5). Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia - dân tộc là toàn bộ những nhu cầu sống còn, trường tồn và phát triển của một quốc gia đã được nhận thức và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong quan hệ với thế giới còn lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết sức quan trọng trong phân tích chính sách đối ngoại(6).


Việc xác định đúng và phù hợp mức độ, thứ tự ưu tiên lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng, việc sắp xếp mức độ ưu tiên trong các lợi ích quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn vào việc quyết định xem loại lợi ích nào quan trọng hơn, có tác động mạnh mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển của quốc gia đó. Một số quốc gia xác định lợi ích theo từng lĩnh vực (chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa...), thời gian đạt được lợi ích (vĩnh cửu, biến đổi); một số quốc gia khác xác định lợi ích theo tiêu chí tầm quan trọng (sống còn, cốt lõi, quan trọng, thứ yếu) hay phạm vi lợi ích (chung, bộ phận, cá nhân). Những nội hàm này cho phép các quốc gia có cơ sở để xác định những vấn đề nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn đề nào có thể thỏa hiệp. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích cũng góp phần phác họa bức tranh chung về lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để từ đó đưa ra những giải pháp, cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia khi thực hiện một chính sách hay một chiến lược nào đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những lợi ích đó tại thời điểm được cho là mang tính “sống còn”. Đơn cử như, Trung Quốc xác định lợi ích cốt lõi trong Sách Trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” (năm 2011), bao gồm chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chế độ chính trị quốc gia mà Hiến pháp Trung Quốc xác lập và cục diện xã hội ổn định, sự bảo đảm cơ bản của kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Trong “Chiến lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết” với “bốn lợi ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước Mỹ và lối sống Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hòa bình thông qua sức mạnh; gia tăng ảnh hưởng của Mỹ(7). Trong tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản về chính sách Nhà nước Liên bang Nga đối với Bắc Cực đến năm 2035”, Nga đưa ra sáu lợi ích quốc gia - dân tộc của Nga, trong đó nhấn mạnh “bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” là mục tiêu cao nhất(8). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để có thể tạo không gian mở, linh hoạt trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, không phải quốc gia nào cũng công khai các nội hàm lợi ích cụ thể.

Nhìn chung, lợi ích quốc gia - dân tộc được xem là “hòn đá tảng” hay “kim chỉ nam” của chính sách đối ngoại. Nội hàm của lợi ích quốc gia - dân tộc đôi khi cũng bao gồm cả những công cụ được lựa chọn để thực hiện mục tiêu chiến lược và ngoại giao chính là một trong những công cụ quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để có thể thoát khỏi những “cạm bẫy” trong quá trình xác định và tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang cho thấy, thành công rất nhiều nhưng thất bại cũng không phải không có.

Tình hình thế giới, khu vực là yếu tố khách quan có tác động lớn đến lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc nói chung và Việt Nam nói riêng. Dự báo trong thời gian tới, thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng và khó lường. Do đó, việc nắm bắt và nghiên cứu thấu đáo bối cảnh quốc tế, khu vực tác động đến Việt Nam là cần thiết nhằm đề ra những sách lược sát, đúng, kịp thời bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.

Những yếu tố tác động đến nhận thức và quá trình thực thi, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam trong quan hệ quốc tế ngày nay:

Một là, trật tự đa cực đang hình thành ngày càng rõ nét cho phép Việt Nam có điều kiện để thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong quan hệ quốc tế và lựa chọn những kế sách phù hợp để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Trật tự đa cực và sức mạnh tổng hợp quốc gia của các cường quốc đứng đầu, nhất là Mỹ và Trung Quốc, ngày càng có xu hướng “cân bằng”, buộc các nước phải “cân nhắc” hành vi của mình do lo ngại về phản ứng của các nước khác. Chính điều đó mang lại lợi ích không nhỏ cho hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới và khu vực.

Hai là, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, diễn ra ngày càng gay gắt, phức tạp, tác động đến hòa bình, ổn định và quan hệ quốc tế của nhiều nước, trong đó có Việt Nam.

Do yêu cầu phát triển kinh tế, nhất là để vượt qua khủng hoảng bởi tác động của đại dịch COVID-19, các nước đẩy nhanh tốc độ khai thác tài nguyên thiên nhiên, từ đó làm trầm trọng thêm vấn đề môi trường và gia tăng thách thức đối với phát triển bền vững. Sự khan hiếm tài nguyên thúc đẩy các nước lớn tiến hành chính sách “ngoại giao tài nguyên” một cách mạnh mẽ hơn. Cuộc chạy đua về kiểm soát tài nguyên giữa các cường quốc khiến cho môi trường an ninh, chính trị quốc tế thêm căng thẳng.

Các nước lớn có thể sẽ sử dụng vai trò, ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế để gây sức ép đối với các nước trong khu vực, nhất là trong các tổ chức quốc tế và khu vực mà những nước này đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt, không loại trừ các nước lớn thỏa hiệp với nhau, ảnh hưởng đến lợi ích của các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam.

Ba là, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc của các nước đang phát triển, nước nhỏ vào nước lớn có xu hướng gia tăng, tác động không nhỏ đến vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Vì lợi ích địa - chính trị, địa - kinh tế, nhiều nước gác lại tranh chấp, đối đầu để cùng hợp tác, khai thác thế mạnh của nhau nhằm chia sẻ lợi ích.

Trước các xu hướng trên, Việt Nam vận dụng hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi(9). Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực do chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ mang lại đối với Việt Nam là không hề nhỏ, đòi hỏi cần có những đối sách phù hợp nhằm hạn chế những tác động này để không ngừng bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Bốn là, nhiều vấn đề có tính toàn cầu nổi lên, tác động mạnh tới nhận thức và quan hệ của các nước nói chung, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam nói riêng.

Ngày nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin... là những vấn đề mang tính toàn cầu nổi lên và đây là những nhân tố tích cực thúc đẩy tiến bộ của thời đại. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ, mở ra một thời đại mới về phát triển lực lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi nền tảng trên mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội của các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Việt Nam có vị trí địa lý đặc thù, chịu tác động nặng nề từ các thách thức an ninh phi truyền thống, ảnh hưởng lớn đến nguồn lực, xây dựng lực lượng, thế trận phòng thủ, các mặt bảo đảm cho hoạt động của lực lượng vũ trang trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời bình và khi có chiến tranh.

Năm là, châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị ngày càng quan trọng trên thế giới, nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, tác động đến việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.

Trong thời gian gần đây, vai trò, sức mạnh và ảnh hưởng của châu Á - Thái Bình Dương đang ngày càng tăng lên khi các nền kinh tế trong khu vực có sự phục hồi và phát triển tích cực mặc dù chịu tác động của đại dịch COVID-19.

Việt Nam là cầu nối giữa vùng kinh tế biển và kinh tế lục địa ở châu Á. Biển Đông là nơi cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, cả trước mắt và lâu dài để bảo đảm an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng không trên tuyến vận tải quốc tế; có vị trí quan trọng trong chiến lược của các nước lớn. Do vậy, các nước lớn muốn lôi kéo Việt Nam trong thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Những chuyển động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương tạo cơ hội để Việt Nam mở rộng quan hệ và tận dụng nguồn lực từ bên ngoài, góp phần nâng cao sức mạnh quốc gia của Việt Nam. Tuy nhiên, những nhân tố bất ổn như tình hình Biển Đông đã và đang ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biển, đảo và lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) quy định cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo, nhưng vẫn tồn tại nhiều thách thức, tranh chấp về phân định các vùng biển chồng lấn, đòi hỏi phải đấu tranh khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Việt Nam với gần 100 triệu dân, có kinh nghiệm, truyền thống lịch sử, có sức mạnh, vị thế trên trường quốc tế, luôn kiên định đường lối độc lập, tự chủ, nhưng cũng chịu sức ép rất lớn từ các thách thức trong khu vực và trên thế giới.

Sáu là, ASEAN tiếp tục phát huy vai trò trung tâm hợp tác, thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á, nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức tác động không nhỏ đến bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.

khu vực Đông Nam Á, tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN tiếp tục được thúc đẩy đi vào chiều sâu, thể hiện ASEAN tiếp tục là khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò trung tâm trong thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền biển, đảo giữa các nước lớn với một số nước ASEAN, buộc các nước phải chú trọng nhiều hơn đến quốc phòng.

Việt Nam là thành viên đóng vai trò ngày càng quan trọng trong ASEAN và nhiều tổ chức khu vực khác. Trong nhìn nhận của các nước lớn - như ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu - Việt Nam là một trong những nước có ảnh hưởng mang tính “dẫn dắt” trong ASEAN. Do đó, trong chính sách của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực, Việt Nam có vị trí tương đối quan trọng, được các nước coi là một đối tác cần tăng cường, là nhân tố góp phần kết nối quan hệ của các nước với ASEAN(10). Với nhận thức của các nước về vai trò của Việt Nam nêu trên là điều kiện thuận lợi để Việt Nam phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới

Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”(11). Qua đó, Đảng ta khẳng định: 1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại(10). Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(12).

Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.

Tuy nhiên, trong điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia - dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(13), Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(14), nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.

Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”(15).

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.

Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Sáu là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.

Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

Tóm lại, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc./.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét