Đối với mỗi quốc gia có chủ quyền trên thế giới, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề có tính nguyên tắc, “bất biến” trong quan hệ quốc tế. Lợi ích quốc gia - dân tộc được cho là hàm chứa cả các mục tiêu chiến lược của quốc gia trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Theo đó, việc xác định, bảo đảm và tối đa hóa lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Hiện nay, bối cảnh mới của đất nước ta trong xu
thế mở cửa, hội nhập quốc tế và những chi phối, tác động mạnh mẽ của dòng chảy
thời đại đặt ra cho cách mạng Việt Nam những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng
không ít khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực từ việc thực
thi chính sách vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh quyết liệt; sự hình thành
các cặp quan hệ chiến lược chi phối đời sống chính trị quốc tế cùng với quá
trình xây dựng và điều chỉnh quan hệ quốc tế thông qua hệ thống luật pháp quốc tế;
sự đan xen lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh
khiến lợi ích của mỗi lĩnh vực không thể phân định một cách rạch ròi; yêu cầu
đòi hỏi cấp bách trong việc tiếp cận, bắt nhịp sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động tiêu cực từ mặt trái của nó.
Các yếu tố đe dọa bất ổn, như: chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền
nước lớn, chủ nghĩa dân túy… ngày càng gia tăng; các vấn đề an ninh phi truyền
thống, như: dịch bệnh, thiên tai, an ninh mạng, khủng bố… diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn yếu tố đe dọa khủng hoảng toàn diện trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó,
còn có những thách thức từ chính những hạn chế, thiếu sót trong quá trình đổi mới
đất nước chưa được giải quyết triệt để. Trước
tình hình đó đòi hỏi nước ta phải xác định, bảo đảm và tối đa hóa lợi ích quốc
gia - dân tộc trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế.
Về lợi ích quốc
gia - dân tộc
Lợi ích quốc
gia - dân tộc là vấn đề vô cùng hệ trọng của mỗi quốc gia trong hoạch định, thực
thi chiến lược, chính sách phát triển, bảo vệ đất nước và hợp tác quốc tế. Ngày
nay, lợi ích giữa các quốc gia ngày càng đan xen trên cơ sở vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh quyết liệt trong cục diện thế giới mới với các xu thế lớn là toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế; hòa bình, hợp tác và phát triển, song cũng chứa đựng bất ổn,
xung đột dưới nhiều hình thức, phức tạp. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia đã
công khai quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc.
Ở Việt Nam, một số chuyên gia cho rằng, khái niệm
lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc mặc dù có những
điểm khác nhau, song được xem là có chung nội hàm và có thể sử dụng thay thế lẫn
nhau. Lợi ích quốc gia là lợi ích chung của cộng đồng những người sống trên một
đất nước, có chung nguồn gốc, lịch sử, phong tục, tập quán và phần nhiều còn
chung cả tiếng nói, chữ viết(1). Lợi ích quốc gia thiên về đại diện của giai cấp
cầm quyền(2). Trong khi đó, lợi ích dân tộc bao hàm tất cả những gì tạo thành
điều kiện cần thiết cho sự trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia - dân
tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập, lãnh thổ toàn vẹn; cho sự phát triển đi
lên về mọi mặt của quốc gia - dân tộc theo hướng làm cho đời sống vật chất và
tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự nâng cao không
ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên trường quốc
tế, vị trí, vai trò, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc(3). Lợi ích dân tộc là
lợi ích của tất cả mọi người dân của một nước(4). Do những điều kiện đặc thù nên
khái niệm lợi ích quốc gia - dân tộc ở Việt Nam có hướng tổng hợp cả hai khái
niệm trên(5). Vì vậy, có thể xem lợi ích quốc gia - dân tộc là toàn bộ những
nhu cầu sống còn, trường tồn và phát triển của một quốc gia đã được nhận thức
và biến thành mục tiêu của chính sách đối ngoại trong quan hệ với thế giới còn
lại ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, là công cụ hết sức quan trọng trong phân
tích chính sách đối ngoại(6).
Việc xác định đúng và phù hợp mức độ, thứ tự ưu
tiên lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi quốc
gia nói chung, Việt Nam nói riêng. Trên thế giới, các nhà nghiên cứu thống nhất
cho rằng, việc sắp xếp mức độ ưu tiên trong các lợi ích quốc gia - dân tộc phụ
thuộc rất lớn vào việc quyết định xem loại lợi ích nào quan trọng hơn, có tác động
mạnh mẽ hơn tới sự tồn vong và phát triển của quốc gia đó. Một số quốc gia xác
định lợi ích theo từng lĩnh vực (chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa...), thời
gian đạt được lợi ích (vĩnh cửu, biến đổi); một số quốc gia khác xác định lợi
ích theo tiêu chí tầm quan trọng (sống còn, cốt lõi, quan trọng, thứ yếu) hay
phạm vi lợi ích (chung, bộ phận, cá nhân). Những nội hàm này cho phép các quốc
gia có cơ sở để xác định những vấn đề nào là ưu tiên, cốt lõi phải bảo vệ, vấn
đề nào có thể thỏa hiệp. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên giữa các lợi ích cũng góp
phần phác họa bức tranh chung về lợi ích quốc gia - dân tộc của các quốc gia để
từ đó đưa ra những giải pháp, cách thức chính xác nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp
quốc gia khi thực hiện một chính sách hay một chiến lược nào đó trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt cần có sự bảo vệ “quyết liệt” những lợi ích đó
tại thời điểm được cho là mang tính “sống còn”. Đơn cử như, Trung Quốc xác định
lợi ích cốt lõi trong Sách Trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” (năm
2011), bao gồm chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống
nhất quốc gia, chế độ chính trị quốc gia mà Hiến pháp Trung Quốc xác lập và cục
diện xã hội ổn định, sự bảo đảm cơ bản của kinh tế - xã hội phát triển bền vững.
Trong “Chiến lược An ninh quốc gia” (năm 2017), Mỹ xác định “nước Mỹ trên hết”
với “bốn lợi ích quốc gia tối quan trọng”, đó là bảo vệ người dân Mỹ, nước Mỹ
và lối sống Mỹ; thúc đẩy sự thịnh vượng của nước Mỹ; bảo vệ hòa bình thông qua
sức mạnh; gia tăng ảnh hưởng của Mỹ(7). Trong tài liệu “Các nguyên tắc cơ bản về
chính sách Nhà nước Liên bang Nga đối với Bắc Cực đến năm 2035”, Nga đưa ra sáu
lợi ích quốc gia - dân tộc của Nga, trong đó nhấn mạnh “bảo đảm chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ” là mục tiêu cao nhất(8). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để có
thể tạo không gian mở, linh hoạt trong quá trình hoạch định và triển khai chính
sách đối ngoại, không phải quốc gia nào cũng công khai các nội hàm lợi ích cụ
thể.
Nhìn chung, lợi ích quốc gia - dân tộc được xem
là “hòn đá tảng” hay “kim chỉ nam” của chính sách đối ngoại. Nội hàm của lợi
ích quốc gia - dân tộc đôi khi cũng bao gồm cả những công cụ được lựa chọn để
thực hiện mục tiêu chiến lược và ngoại giao chính là một trong những công cụ
quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu này. Để có thể thoát khỏi những “cạm bẫy”
trong quá trình xác định và tối ưu hóa lợi ích quốc gia - dân tộc là vấn đề hết
sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, khi thực tế đã và đang
cho thấy, thành công rất nhiều nhưng thất bại cũng không phải không có.
Tình hình thế giới, khu vực là yếu tố khách quan
có tác động lớn đến lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc nói chung và Việt Nam
nói riêng. Dự báo trong thời gian tới, thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức
tạp, nhanh chóng và khó lường. Do đó, việc nắm bắt và nghiên cứu thấu đáo bối cảnh
quốc tế, khu vực tác động đến Việt Nam là cần thiết nhằm đề ra những sách lược
sát, đúng, kịp thời bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Những yếu tố tác động đến nhận thức và quá trình thực thi, bảo đảm lợi ích
quốc gia - dân tộc Việt Nam trong quan hệ quốc tế ngày nay:
Một là, trật tự đa cực đang hình
thành ngày càng rõ nét cho phép Việt Nam có điều kiện để thực hiện “dĩ bất biến
ứng vạn biến” trong quan hệ quốc tế và lựa chọn những kế sách phù hợp để bảo vệ
lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trật
tự đa cực và sức mạnh tổng hợp quốc gia của các cường quốc đứng đầu, nhất là Mỹ
và Trung Quốc, ngày càng có xu hướng “cân bằng”, buộc các nước phải “cân nhắc” hành vi của mình do lo ngại về
phản ứng của các nước khác. Chính điều đó mang lại lợi ích không nhỏ cho hòa
bình, ổn định và phát triển của thế giới và khu vực.
Hai là, cạnh tranh chiến lược giữa
các nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, diễn ra ngày càng gay gắt, phức
tạp, tác động đến hòa bình, ổn định và quan hệ quốc tế của nhiều nước, trong đó
có Việt Nam.
Do yêu cầu phát triển kinh tế, nhất là để vượt qua khủng hoảng bởi tác
động của đại dịch COVID-19, các nước đẩy nhanh tốc độ khai thác tài nguyên
thiên nhiên, từ đó làm trầm trọng thêm vấn đề môi trường và gia tăng thách thức
đối với phát triển bền vững. Sự khan hiếm tài nguyên thúc đẩy các nước lớn tiến hành chính sách “ngoại giao tài nguyên” một cách mạnh mẽ hơn. Cuộc chạy
đua về kiểm soát tài nguyên giữa các cường quốc khiến cho môi trường an ninh,
chính trị quốc tế thêm căng thẳng.
Các nước lớn có thể sẽ sử dụng
vai trò, ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế để gây sức ép đối với các nước
trong khu vực, nhất là trong các tổ chức quốc tế và khu vực mà những nước này
đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt, không loại trừ các nước lớn
thỏa hiệp với nhau, ảnh hưởng đến lợi ích của các nước vừa và nhỏ, trong đó có
Việt Nam.
Ba
là, hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc
của các nước đang phát triển, nước nhỏ vào nước lớn có xu hướng gia tăng, tác động
không nhỏ đến vấn đề bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Vì lợi ích địa - chính trị,
địa - kinh tế, nhiều nước gác lại tranh chấp, đối đầu để cùng hợp tác, khai
thác thế mạnh của nhau nhằm chia sẻ lợi ích.
Trước các xu hướng trên, Việt
Nam vận dụng hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm
cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi(9).
Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực do chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa
dân túy, chủ nghĩa bảo hộ mang lại đối với Việt Nam là không hề nhỏ, đòi hỏi cần
có những đối sách phù hợp nhằm hạn chế những tác động này để không ngừng bảo vệ
lợi ích quốc gia - dân tộc.
Bốn là, nhiều vấn đề có tính toàn cầu
nổi lên, tác động mạnh tới nhận thức và quan hệ của các nước nói chung, bảo đảm
lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam nói riêng.
Ngày nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin... là những vấn đề
mang tính toàn cầu nổi lên và đây là những nhân tố tích cực thúc đẩy tiến bộ của
thời đại. Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh
mẽ, mở ra một thời đại mới về phát triển lực lượng sản xuất, dẫn tới sự thay đổi
nền tảng trên mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội của các nước trên thế giới,
trong đó có Việt Nam.
Việt Nam có vị trí địa lý đặc thù, chịu tác động nặng nề từ các thách
thức an ninh phi truyền thống, ảnh hưởng lớn đến nguồn lực, xây dựng lực lượng,
thế trận phòng thủ, các mặt bảo đảm cho hoạt động của lực lượng vũ trang trong
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời bình và khi có chiến tranh.
Năm là, châu Á - Thái Bình Dương
tiếp tục là khu vực phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị
ngày càng quan trọng trên thế giới, nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, tác động
đến việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, vai trò, sức mạnh và ảnh hưởng của châu Á -
Thái Bình Dương đang ngày càng tăng lên khi các nền kinh tế trong khu vực có sự
phục hồi và phát triển tích cực mặc dù chịu tác động của đại dịch COVID-19.
Việt Nam là cầu nối giữa vùng kinh tế biển và kinh tế lục địa ở châu Á.
Biển Đông là nơi cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, cả trước mắt và lâu dài
để bảo đảm an ninh, an toàn tự do hàng hải, hàng không trên tuyến vận tải quốc
tế; có vị trí quan trọng trong chiến lược của các nước lớn. Do vậy, các nước lớn
muốn lôi kéo Việt Nam trong thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Những chuyển động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương tạo cơ hội để Việt Nam mở
rộng quan hệ và tận dụng nguồn lực từ bên ngoài, góp phần nâng cao sức mạnh quốc
gia của Việt Nam. Tuy nhiên, những nhân tố bất ổn như tình hình Biển Đông đã và
đang ảnh hưởng lớn đến việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biển, đảo và lợi
ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam. Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm
1982 (UNCLOS 1982) quy định cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề liên quan đến
chủ quyền biển, đảo, nhưng vẫn tồn tại nhiều thách thức, tranh chấp về phân định
các vùng biển chồng lấn, đòi hỏi phải đấu tranh khẳng định và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Việt Nam. Việt Nam với gần 100 triệu dân, có kinh nghiệm, truyền
thống lịch sử, có sức mạnh, vị thế trên trường quốc tế, luôn kiên định đường lối
độc lập, tự chủ, nhưng cũng chịu sức ép rất lớn từ các thách thức trong khu vực
và trên thế giới.
Sáu là, ASEAN tiếp tục phát huy vai
trò trung tâm hợp tác, thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á, nhưng vẫn phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức tác động không nhỏ đến bảo đảm lợi ích quốc gia
- dân tộc của Việt Nam.
Ở
khu vực Đông Nam Á, tiến
trình xây dựng Cộng đồng ASEAN tiếp tục được thúc đẩy đi vào chiều sâu, thể hiện
ASEAN tiếp tục là khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò
trung tâm trong thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á. Tuy nhiên, tranh chấp chủ quyền
biển, đảo giữa các nước lớn với một số nước ASEAN, buộc các nước phải chú trọng
nhiều hơn đến quốc phòng.
Việt Nam là thành viên đóng vai trò ngày càng quan trọng trong ASEAN và
nhiều tổ chức khu vực khác. Trong nhìn nhận của các nước lớn - như ý kiến của
nhiều nhà nghiên cứu - Việt Nam là một trong những nước có ảnh hưởng mang tính
“dẫn dắt” trong ASEAN. Do đó, trong chính sách của các nước, nhất là các nước lớn
đối với khu vực, Việt Nam có vị trí tương đối quan trọng, được các nước coi là
một đối tác cần tăng cường, là nhân tố góp phần kết nối quan hệ của các nước với
ASEAN(10). Với nhận thức của các nước về vai trò của Việt Nam nêu trên là điều
kiện thuận lợi để Việt Nam phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp
trong bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới
Đối với Việt Nam, quan điểm
về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha
ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc
lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt
đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến
động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục
được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được
coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động đối
ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại
“vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ
rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao
của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
bình đẳng và cùng có lợi”(11). Qua đó, Đảng ta khẳng định: 1- Lợi ích quốc gia
và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là
những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị kỷ; 3- Lợi ích quốc
gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi,
cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc
gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia
- dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng
đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại(10). Đại hội XIII (tháng
1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(12).
Trong giai đoạn hiện nay, có
thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp
pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngoài; bảo
vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân
tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn
định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng
không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như các
quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia giải quyết
những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó với biến đổi
khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh biển, an
ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội phạm
xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.
Tuy nhiên, trong điều kiện
không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc
của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân tộc của nước
khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia - dân tộc phải
phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi ích vượt ra
ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác và
ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất
quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát
triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”(13), Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các
cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc
tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ
động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên
nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động
tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế”(14), nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các
quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong
cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực
từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu
to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực
lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Tuy nhiên, để bảo đảm lợi
ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa
ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc
trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình quốc tế, khu
vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục
diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp,
đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược
biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc
và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng không trong
khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ
có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia
- dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có,
nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.
Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc
bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn
đề sau:
Một là, tiếp tục triển khai có hiệu
quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều
sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa
phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới...
Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình
hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực;
nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến
lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam
nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó
phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn
cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động,
phải thấy trước, chuẩn bị trước”(15).
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp
trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước
và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn
đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới
đang phải đối diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm
cho những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.
Bốn là, giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế
và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước
trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi
chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc
khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống
nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn
định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt
ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà
toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát
sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy,
kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều
này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo
đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và
quốc tế.
Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát
triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”.
Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh
luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội
nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại,
nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một
chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các
nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng
hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt
Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Sáu là, bảo đảm an ninh và phát
triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt
Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc
cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể
tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang
lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển
toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước
ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người
dân làm trung tâm”.
Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác
nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là
thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia -
dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm
xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước,
con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại...,
giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế
giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước
Việt Nam.
Tóm lại, trong mọi giai đoạn
của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là
phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày nay là
minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết,
trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện thuận lợi
để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét