MỐI QUAN HỆ
BIỆN CHỨNG GIỮA VĂN HOÁ VỚI CÁC YẾU TỐ
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(Loại hình viết: Tạp chí)
Tóm tắt: Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là điểm tựa tinh
thần vững chắc, ánh sáng soi đường, đồng thời đã và đang trở thành một bộ phận
của nền văn hoá Việt Nam. Nhận chân tư tưởng Hồ Chí Minh về mối
quan hệ biện chứng giữa văn hoá với các yếu tố kinh tế và chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn,
không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc, tin tưởng hơn vào tư tưởng của Người, mà còn cho chúng ta có cơ sở khoa học để quán triệt
và thực hiện tốt đường lối, chính sách xây dựng và phát triển nền văn hoá mới
xã hội chủ nghĩa của nước nhà hiện nay.
Từ khóa:
Tư tưởng Hồ Chí Minh; văn hóa, kinh tế, chính trị; xây dựng nền văn hóa mới…
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ
đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của
Người là một kho báu văn hoá vô giá của dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng
lớn và phong phú, đặc sắc, sáng tạo, rất trí tuệ và nhân văn. Do đặc thù là nhà
hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị, Người không có tác phẩm lớn chuyên bàn về lĩnh vực văn hoá; nhưng tư
tưởng về văn hoá lại thể hiện trong từng bài viết, bài nói, việc làm và trong
cốt cách, nhân cách của Người. Từ định nghĩa, đặc điểm
hình thành và phát triển văn hoá; đến
mối quan hệ giữa xây dựng nền văn hoá mới với xây dựng con người mới; về nền
văn hoá mới ở Việt Nam… đều được Hồ Chí Minh
nêu lên và luận giải rất sâu sắc, khái quát cao, song cũng rất cụ thể, dễ hiểu
và dễ đi vào lòng người.
Người viết: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của
mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1]. Theo cách hiểu của Người, văn
hoá rất rộng và khái quát cao, song cũng rất cụ thể và dễ hiểu; theo nghĩa như vậy,
văn hoá mới có thể đóng vai trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội” như Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định.
Một số đặc điểm (tính quy luật)
trong sự hình thành và phát triển của văn hoá theo Hồ Chí Minh, văn hoá là kết quả của năng lực sáng tạo của
con người trong hoạt động thực tiễn chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội phục
vụ cho nhu cầu của con người; văn
hoá bao giờ cũng tồn tại với tính cách là văn hoá dân tộc, trong mối quan hệ
biện chứng với văn hoá nhân loại; văn hoá là một “dòng chảy” liên tục, sự phát triển của văn hoá là sự thống nhất của hai quá
trình: lọc bỏ những cái xấu, cái phản giá trị, phản tiến bộ và kế thừa cái tốt,
cái tinh hoa và những cái có giá trị; đặc biệt, văn hoá tồn tại và phát triển trong mối liên hệ biện chứng với các yếu
tố kinh tế và chính trị và chịu sự quy định của kinh tế và chính trị.
Văn hoá thuộc lĩnh vực tinh
thần của đời sống xã hội, hoạt động văn hoá sản xuất ra những giá trị tinh thần
nhằm hình thành ở con người khát vọng vươn tới hệ giá trị chân, thiện, mỹ; là
bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, văn hoá chịu sự chi phối của các quan hệ,
các điều kiện kinh tế và chính trị. Hồ Chí Minh viết: “Văn hoá
là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi
văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”[2];
“Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao
không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực
được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta”[3].
Quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin về văn hoá được tiếp thu
và truyền bá theo phương thức của Hồ Chí Minh. Khác với tất cả các quan niệm
của các nhà nho, của các trí thức tư sản, họ đã tách văn hoá khỏi đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội và coi lĩnh vực văn hoá gắn liền với cuộc sống “cao
thượng” của tầng lớp trên. Người khẳng định: “Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi
hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[4];
Quan điểm của Người đã định hướng và động viên được cả dân tộc đi vào cuộc
kháng chiến thần thánh và thực hiện khẩu hiệu “văn hoá hoá kháng chiến, kháng
chiến hoá văn hoá”.
Hồ Chí Minh một mặt coi trọng
ảnh hưởng quyết định của kinh tế tới văn hoá, mặt khác coi trọng chế độ chính
trị, các chế ước xã hội làm nảy sinh tính đa dạng của văn hoá; nhưng đồng thời
Người cũng thấy được vai trò to lớn tác động trở lại của văn hoá đối với kinh
tế, chính trị và xã hội, văn hoá là nền tảng, động lực tinh thần quan trọng cho
sự phát triển vững chắc của mọi mặt đời sống và tiến bộ xã hội. Người khẳng
định: “Văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời
sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Văn hoá phải gắn liền với lao động sản
xuất. Văn hoá xa đời sống, xa lao động là văn hoá suông. Nhiệm vụ của người cán
bộ văn hoá là phải dùng văn hoá để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước
nhà...”[5]. Nghệ thuật cũng là một mặt
trận, “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”[6], Người: nhấn mạnh: “Trong
công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng
ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”; “Trình độ văn hoá của nhân
dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển
dân chủ...cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[7]. Điều đó cho thấy, văn hoá
đứng ở trong kinh tế và chính trị, kinh tế và chính trị phải có tính văn hoá,
đây là quan điểm hết sức biện chứng, khoa học.
Ở đâu, bất cứ lĩnh vực nào Hồ
Chí Minh cũng căn dặn phải chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần
cho nhân dân. Người viết: “Nói đến đời sống thì phải nói cả đời sống vật chất
và đời sống tinh thần”[8]; “Phải thật sự săn sóc đến
đời sống tinh thần và vật chất của công nhân”[9]; “Cán bộ phải chăm sóc đến
đời sống tinh thần và vật chất của chiến sĩ”[10]. Ngày 07/5/1964 khi trả
lời phỏng vấn phóng viên nữ nhà báo Pháp ĐANIENHUYNƠBEN về những vấn đề chính
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người nói: “Cải thiện từng bước đời sống
của nhân dân làm cho đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần càng
thêm tiến bộ”[11].
Từ những quan điểm duy vật biện chứng đó của Hồ Chí Minh, ngày nay Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy không khái quát thành hệ thống lý luận, nhưng
những luận điểm của Hồ Chí Minh đã làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản nhất - tính quy
luật trong sự tồn tại và phát triển của văn hoá. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá ở nước ta, nhận thức
đầy đủ và sâu sắc những đặc điểm đó đảm bảo cho văn hoá phát triển đúng quy
luật và đạt hiệu quả cao. Mối quan hệ
biện chứng giữa văn hoá với các
yếu tố kinh tế và chính trị trong quá trình tồn tại và phát triển theo tư tưởng
Hồ Chí Minh là cơ sở nhận thức sự tất yếu khác nhau về bản
chất giữa nền văn hoá mới với nền văn hóa cũ và mối quan hệ giữa xây dựng nền văn
hoá mới với xây dựng xã hội mới, con người mới ở Việt Nam. Phải chú
trọng xây dựng nền văn hoá, làm cho văn hoá thực sự là môi trường giáo dục,
nuôi dưỡng và phát huy các giá trị người, đào luyện ra những con người đủ đức,
đủ tài để xây dựng chế độ xã hội mới và nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa; đồng thời
phải coi trọng chiến lược xây dựng con người, tạo ra những con người có văn hoá
và có khả năng sáng tạo ra các giá trị văn hoá phù hợp với yêu cầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội; sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới và con người mới phải được
tiến hành đồng thời, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, thúc đẩy nhau
cùng phát triển trong sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc, bảo đảm sự hài hoà
và bền vững trong phát triển đất nước. Ngay từ
những năm 1942- 1943, Hồ Chí Minh đã đề xuất năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá
dân tộc - nền
văn hoá mới ở Việt Nam[12]. Với quan
điểm biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá thể hiện rất rõ nét và đặc sắc
mối quan hệ giữa văn hoá với các lĩnh vực khác của đời sống văn hoá - xã hội,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế; Người luôn đòi hỏi phải gắn chặt giữa phát triển
văn hoá với phát triển kinh tế- xã hội và khẳng định “Phải xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng”[13].
Đó là kết quả của quá trình vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin để có được
triết lý về sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam: Nền văn hoá mang tính dân tộc, hiện đại và
nhân văn; nền văn hoá gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và một bộ
phận của sự nghiệp cách mạng; nền văn hoá mang tính khoa học và tính nhân dân
(tính đại chúng) sâu sắc.
Cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, về mối
quan hệ biện chứng giữa văn hoá
với các yếu tố kinh tế và chính trị, đã trở thành thế giới quan, phương
pháp luận định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở
nước ta. Từ khi Đảng ra đời đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta phải
tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là đấu tranh giành độc lập dân tộc, trên lĩnh
vực văn hóa, Đảng đã ban hành Đề
cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) với chủ trương xây dựng nền văn
hóa mới; theo đó, nền văn hóa giai đoạn này có “tính chất dân tộc về hình thức
và tân dân chủ về nội dung”. Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với chủ
trương “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động
phong trào “Đời sống mới”. Giai đoạn 1954 - 1975, trong điều kiện của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh ba cuộc
cách mạng: Quan hệ sản xuất, khoa học - kỹ thuật và tư tưởng - văn hóa. Sau
giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, trên lĩnh vực văn hóa, cùng với chủ trương xây dựng nền văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa, ở miền Nam Đảng và Nhà nước chủ trương nhanh chóng xóa bỏ
ảnh hưởng văn hóa và lối sống chủ nghĩa tư bản, nhất là ở các đô thị; giáo dục,
cải tạo những người lầm đường, lạc lối với tinh thần khoan dung; thống nhất các
tổ chức và thiết chế văn hóa; triển khai đồng bộ và cân đối sự nghiệp văn hóa
trong toàn quốc. Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, văn hóa tiếp tục phát triển
trong điều kiện mới của đất nước, nhưng tình hình kinh tế - xã hội nước ta lâm
vào khủng hoảng, ảnh hưởng đến lĩnh vực văn hóa, xã hội của đất nước, đời sống
văn hóa của nhân dân.
Thực
hiện đường lối đổi mới, Đại hội lần thứ
VII của Đảng đã xác định chúng ta xây dựng một nền văn hoá mới tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; năm 1998, Đảng ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam; năm 2014, Đảng tiếp tục ra Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”… Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam có nhiều chuyển biến tích cực: Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày
càng toàn diện, sâu sắc hơn; các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát
triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống xã hội; nhiều
giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát
huy; văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được coi trọng
và phát huy hiệu quả, thiết thực; hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc
tế về văn hóa có nhiều khởi sắc; phát
triển toàn diện con người Việt Nam từng bước trở thành trung tâm
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi
cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến
văn hóa, lối sống con người được chú trọng[14].
Tuy nhiên, lĩnh vực văn
hóa, lối sống cũng còn tồn tại những biểu hiện của sự trì trệ, thụ động, chưa
đổi mới, bứt phá để phù hợp với xã hội hiện đại, nhất là những biểu hiện phai
nhạt về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quay lưng
lại với những giá trị truyền thống của dân tộc, của cách mạng, chạy theo lối
sống thực dụng của một bộ phận cư dân. Nguyên nhân là do văn hóa chưa được quan
tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động
lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước; vai trò của văn hóa trong xây
dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức
năng giải trí đơn thuần; môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các
tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn
hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương
của Đảng về văn hóa[15].
Để khắc phục những hạn chế, chấn hưng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ biện
chứng giữa văn hóa và kinh tế, chính trị, cần
tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp:
Một là, bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa
là nền tảng tinh thần, tạo nên sự phát triển đồng bộ
Cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa
về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết
số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 và Kết luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020, trước hết là ở
các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần làm tốt vai trò tham mưu cho
các cấp ủy đảng, chính quyền để văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị; văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là
mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất
nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển
kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa
là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[16]. Văn hóa được đặt trong
chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, quan điểm đó phù hợp với
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá.
Về
kinh tế, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm tận dụng tốt cơ hội của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi
mới sáng tạo, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước. Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện theo tinh
thần Kết
luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước,
chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện văn hoá kinh tế, văn hóa chính trị, văn hoá đảng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Cùng với phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng
Đảng là then chốt, triển khai thực hiện Chiến
lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3
trụ cột, tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế nhằm phát huy
vai trò của trụ cột văn hóa gắn liền với trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội
theo hướng phát triển bền vững. Bảo
đảm “giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”[17].
Hai là, xây dựng và
thực hiện các chuẩn mưc văn hóa trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để văn hóa làm tròn sứ
mệnh “soi đường cho quốc dân đi” và thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cần “Xây dựng và thực
hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; Chú trọng xây dựng môi
trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh
quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng; Xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh”[18].
Coi trọng xây dựng và
làm lan tỏa các giá trị văn hóa cả trong chính trị và kinh tế, nhất là trong
các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư để văn hóa
thực sự thấm sâu, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát
triển bền vững. Đặc biệt cần đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, công
chức và đảng viên ở các cơ quan, đơn vị trong ứng xử, giao tiếp và giải quyết
các mối quan hệ bằng các giá trị văn hóa, cả trong nhận thức và hành động, từ
lời nói đến việc làm, đây là nội dung rất cơ bản để xây dựng văn hóa trong
chính trị, qua đó thúc đẩy việc xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh.
Làm cho văn hóa gắn kết
và thấm sâu vào nhận thức, thái độ, hành vi trong quan hệ và hoạt động hằng
ngày của các tổ chức, lực lượng và nhân dân; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công
dân đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Cần có cơ chế
khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực để mọi cán bộ, công
chức, viên chức tận tụy phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao;
Đồng thời cần kiên quyết phê phán, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên
chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng
nhiễu dân…
Ba là, đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế
thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp nhận
có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt kịp với sự phát triển của thời đại.
Văn hóa là căn cước của một dân
tộc, bao gồm hai hợp phần là nội sinh và tiếp biến từ bên ngoài. Trong quá
trình mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hoá, cùng với việc tập trung xây
dựng những giá trị mới của văn hoá Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh
công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn
hoá dân tộc, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt kịp với sự
phát triển của thời đại. Cần có sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá
trị hiện đại; vừa kế thừa những giá trị, chuẩn mực, cốt cách tốt đẹp của con
người Việt Nam truyền thống, vừa có sự bổ sung phù hợp thực tiễn đất nước và sự
phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại. Coi trọng bồi đắp con người giàu
lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm
chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại, có nhân cách tốt, lối sống đẹp. Quá trình
giáo dục con người cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng,
trong đó kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội, đặc biệt quan
tâm đến phát huy giá trị văn hóa gia đình để bồi đắp con người những giá trị,
chuẩn mực văn hóa, đạo đức tốt đẹp.
“Thực
hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo
đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”[19];
Coi trọng giáo dục “lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên;
nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội... để phát triển
lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ”[20];
Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con
người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại.
Bốn là, phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc
đáo của văn hoá các dân tộc anh em, kiên trì củng cố và nâng cao tính thống
nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.
Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta
luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là đường lối chiến lược
đúng đắn, là nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản săc dân tộc
hiện nay, vừa phải phát huy mạnh mẽ
tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, làm phong phú nền
văn hoá chung của cả nước; vừa phải kiên trì củng cố và nâng cao tính thống
nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi
dụng văn hoá để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
“Xây dựng, phát triển,
tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu
nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục
tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[21].
Coi trọng phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa
phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để các giá trị
văn hóa, chuẩn mực con người không ngừng được bổ sung, phát triển, thực sự là
nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh
tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
Cần “Có cơ chế, chính
sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh,
cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân”[22].
Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”; chú trọng phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội,
tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, thực
sự là định hướng giá trị để “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự
hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây
dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh,
hội nhập quốc tế”[23].
Năm là, tăng cường nguồn lực, chủ động có kế hoạch,
chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho văn hoá nước nhà phát triển
đúng hướng và vững chắc trong thời kỳ mới.
Để văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn
mực văn hoá của cộng đồng, định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích
nhân văn và là cột mốc vững chắc nhất trong tâm trí mỗi con người, Đảng và Nhà
nước quan tâm, hỗ trợ và xây dựng một chương trình mục tiêu quốc gia về phát
triển văn hóa. Tập trung nghiên cứu, xác
định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị
con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới; hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ
máy quản lý nhà nước về văn hóa. Trong đó, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước về văn hóa theo hướng tinh gọn, tinh thông, hiệu lực, hiệu quả; phân định
rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa ở Trung
ương và địa phương, đề cao vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cấp cơ sở; phát triển
nguồn nhân lực ngành văn hóa, văn nghệ, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý, lĩnh vực then chốt, đặc thù; xây
dựng văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng trở
thành tấm gương đạo đức cho xã hội, văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết
cho sự phát triển kinh tế - xã hội…
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, về mối quan hệ biện
chứng giữa văn hóa với các lĩnh vực kinh tế và chính trị đã, đang và sẽ tiếp
tục là kim chỉ nam định hướng đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tư tưởng
ấy không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực hoạch định chiến lược phát triển văn hoá
của Đảng, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong chỉ đạo các hoạt động văn hoá cụ
thể trên các lĩnh vực khác nhau. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần nghiên cứu sâu sắc
toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là những tư tưởng của Người về
văn hoá, về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với các lĩnh vực kinh tế và
chính trị, từ đó vận dụng sáng tạo trong
thực tiễn xây dựng và phát triển văn hoá, đề ra đường lối, chính
sách xây dựng và phát triển văn hoá một cách đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả.
Tài tiệu tham
khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập
I.
2. Hồ Chí Minh, Văn
hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981.
3. Hồ Chí Minh, Về văn hoá, Bảo
tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội 1997.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3.
5. Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 6.
6. Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 8.
7. Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 6.
8. Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10.
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 8.
10. Hồ Chí Minh, Toàn
tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 9.
11.
Hồ Chí
Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001,
Tập 11.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, tr. 431.
[2] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là
một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr. 345.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr. 59.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 1995, Tập 6, tr. 369.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr. 59.
[6] Hồ Chí Minh, Về văn hoá, Bảo
tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội 1997, tr. 320.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 1995, Tập 8, tr. 281- 282.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr. 660.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 2001, Tập 8, tr. 85.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 2001, Tập 9, tr. 405.
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 2001, Tập 11, tr. 267.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, tr. 431.
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 6, tr 173.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 64-65.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 84.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 110.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 202.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 144.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 143.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 168.
[21]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 116.
[22]
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 114.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 221 – 222.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét