Thứ Ba, 4 tháng 6, 2024

 

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VĂN HOÁ VỚI CÁC YẾU TỐ

KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 (Loại hình viết: Tạp chí)

Tóm tắt: Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá là điểm tựa tinh thần vững chắc, ánh sáng soi đường, đồng thời đã và đang trở thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam. Nhận chân tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá với các yếu tố kinh tế và chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc, tin tưởng hơn vào tư tưởng của Người, mà còn cho chúng ta có cơ sở khoa học để quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chính sách xây dựng và phát triển nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa của nước nhà hiện nay.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; văn hóa, kinh tế, chính trị; xây dựng nền văn hóa mới…

Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận thiên tài của cách mạng Việt Nam. Toàn bộ di sản tư tưởng của Người là một kho báu văn hoá vô giá của dân tộc, hàm chứa nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, đặc sắc, sáng tạo, rất trí tuệ và nhân văn. Do đặc thù là nhà hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị, Người không có tác phẩm lớn chuyên bàn về lĩnh vực văn hoá; nhưng tư tưởng về văn hoá lại thể hiện trong từng bài viết, bài nói, việc làm và trong cốt cách, nhân cách của Người. Từ định nghĩa, đặc điểm hình thành và phát triển văn hoá; đến mối quan hệ giữa xây dựng nền văn hoá mới với xây dựng con người mới; về nền văn hoá mới ở Việt Nam… đều được Hồ Chí Minh nêu lên và luận giải rất sâu sắc, khái quát cao, song cũng rất cụ thể, dễ hiểu và dễ đi vào lòng người.

Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1]. Theo cách hiểu của Người, văn hoá rất rộng và khái quát cao, song cũng rất cụ thể và dễ hiểu; theo nghĩa như vậy, văn hoá mới có thể đóng vai trò “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội” như Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định.

Một số đặc điểm (tính quy luật) trong sự hình thành và phát triển của văn hoá theo Hồ Chí Minh, văn hoá là kết quả của năng lực sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội phục vụ cho nhu cầu của con người; văn hoá bao giờ cũng tồn tại với tính cách là văn hoá dân tộc, trong mối quan hệ biện chứng với văn hoá nhân loại; văn hoá là một dòng chảy liên tục, sự phát triển của văn hoá là sự thống nhất của hai quá trình: lọc bỏ những cái xấu, cái phản giá trị, phản tiến bộ và kế thừa cái tốt, cái tinh hoa và những cái có giá trị; đặc biệt, văn hoá tồn tại và phát triển trong mối liên hệ biện chứng với các yếu tố kinh tế và chính trị và chịu sự quy định của kinh tế và chính trị.

Văn hoá thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, hoạt động văn hoá sản xuất ra những giá trị tinh thần nhằm hình thành ở con người khát vọng vươn tới hệ giá trị chân, thiện, mỹ; là bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, văn hoá chịu sự chi phối của các quan hệ, các điều kiện kinh tế và chính trị. Hồ Chí Minh viết: “Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi văn hoá mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”[2]; “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước... Phát triển kinh tế và văn hoá để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ta”[3]. Quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin về văn hoá được tiếp thu và truyền bá theo phương thức của Hồ Chí Minh. Khác với tất cả các quan niệm của các nhà nho, của các trí thức tư sản, họ đã tách văn hoá khỏi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và coi lĩnh vực văn hoá gắn liền với cuộc sống “cao thượng” của tầng lớp trên. Người khẳng định: “Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[4]; Quan điểm của Người đã định hướng và động viên được cả dân tộc đi vào cuộc kháng chiến thần thánh và thực hiện khẩu hiệu “văn hoá hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá”.

Hồ Chí Minh một mặt coi trọng ảnh hưởng quyết định của kinh tế tới văn hoá, mặt khác coi trọng chế độ chính trị, các chế ước xã hội làm nảy sinh tính đa dạng của văn hoá; nhưng đồng thời Người cũng thấy được vai trò to lớn tác động trở lại của văn hoá đối với kinh tế, chính trị và xã hội, văn hoá là nền tảng, động lực tinh thần quan trọng cho sự phát triển vững chắc của mọi mặt đời sống và tiến bộ xã hội. Người khẳng định: “Văn hoá phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn hoá xa đời sống, xa lao động là văn hoá suông. Nhiệm vụ của người cán bộ văn hoá là phải dùng văn hoá để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước nhà...”[5]. Nghệ thuật cũng là một mặt trận, “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”[6], Người: nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”; “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ...cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[7]. Điều đó cho thấy, văn hoá đứng ở trong kinh tế và chính trị, kinh tế và chính trị phải có tính văn hoá, đây là quan điểm hết sức biện chứng, khoa học.

Ở đâu, bất cứ lĩnh vực nào Hồ Chí Minh cũng căn dặn phải chăm lo đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân. Người viết: “Nói đến đời sống thì phải nói cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần”[8]; “Phải thật sự săn sóc đến đời sống tinh thần và vật chất của công nhân”[9]; “Cán bộ phải chăm sóc đến đời sống tinh thần và vật chất của chiến sĩ”[10]. Ngày 07/5/1964 khi trả lời phỏng vấn phóng viên nữ nhà báo Pháp ĐANIENHUYNƠBEN về những vấn đề chính của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Người nói: “Cải thiện từng bước đời sống của nhân dân làm cho đời sống vật chất ngày càng ấm no, đời sống tinh thần càng thêm tiến bộ”[11]. Từ những quan điểm duy vật biện chứng đó của Hồ Chí Minh, ngày nay Đảng Cộng sản Việt Nam xác định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Tuy không khái quát thành hệ thống lý luận, nhưng những luận điểm của Hồ Chí Minh đã làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản nhất - tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của văn hoá. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá ở nước ta, nhận thức đầy đủ và sâu sắc những đặc điểm đó đảm bảo cho văn hoá phát triển đúng quy luật và đạt hiệu quả cao. Mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá với các yếu tố kinh tế và chính trị trong quá trình tồn tại và phát triển theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở nhận thức sự tất yếu khác nhau về bản chất giữa nền văn hoá mới với nền văn hóa cũ và mối quan hệ giữa xây dựng nền văn hoá mới với xây dựng xã hội mới, con người mới ở Việt Nam. Phải chú trọng xây dựng nền văn hoá, làm cho văn hoá thực sự là môi trường giáo dục, nuôi dưỡng và phát huy các giá trị người, đào luyện ra những con người đủ đức, đủ tài để xây dựng chế độ xã hội mới và nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa; đồng thời phải coi trọng chiến lược xây dựng con người, tạo ra những con người có văn hoá và có khả năng sáng tạo ra các giá trị văn hoá phù hợp với yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới và con người mới phải được tiến hành đồng thời, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển trong sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc, bảo đảm sự hài hoà và bền vững trong phát triển đất nước. Ngay từ những năm 1942- 1943, Hồ Chí Minh đã đề xuất năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc - nền văn hoá mới ở Việt Nam[12]. Với quan điểm biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá thể hiện rất rõ nét và đặc sắc mối quan hệ giữa văn hoá với các lĩnh vực khác của đời sống văn hoá - xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế; Người luôn đòi hỏi phải gắn chặt giữa phát triển văn hoá với phát triển kinh tế- xã hội và khẳng định “Phải xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”[13]. Đó là kết quả của quá trình vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin để có được triết lý về sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới ở Việt Nam: Nền văn hoá mang tính dân tộc, hiện đại và nhân văn; nền văn hoá gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của dân tộc và một bộ phận của sự nghiệp cách mạng; nền văn hoá mang tính khoa học và tính nhân dân (tính đại chúng) sâu sắc.

Cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, về mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá với các yếu tố kinh tế và chính trị, đã trở thành thế giới quan, phương pháp luận định hướng cho công cuộc xây dựng và phát triển nền văn hoá mới ở nước ta. Từ khi Đảng ra đời đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta phải tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là đấu tranh giành độc lập dân tộc, trên lĩnh vực văn hóa, Đảng đã ban hành Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) với chủ trương xây dựng nền văn hóa mới; theo đó, nền văn hóa giai đoạn này có “tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”. Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với chủ trương “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào “Đời sống mới”. Giai đoạn 1954 - 1975, trong điều kiện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh ba cuộc cách mạng: Quan hệ sản xuất, khoa học - kỹ thuật và tư tưởng - văn hóa. Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trên lĩnh vực văn hóa, cùng với chủ trương xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, ở miền Nam Đảng và Nhà nước chủ trương nhanh chóng xóa bỏ ảnh hưởng văn hóa và lối sống chủ nghĩa tư bản, nhất là ở các đô thị; giáo dục, cải tạo những người lầm đường, lạc lối với tinh thần khoan dung; thống nhất các tổ chức và thiết chế văn hóa; triển khai đồng bộ và cân đối sự nghiệp văn hóa trong toàn quốc. Từ đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, văn hóa tiếp tục phát triển trong điều kiện mới của đất nước, nhưng tình hình kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng, ảnh hưởng đến lĩnh vực văn hóa, xã hội của đất nước, đời sống văn hóa của nhân dân.

Thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã xác định chúng ta xây dựng một nền văn hoá mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; năm 1998, Đảng ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam; năm 2014, Đảng tiếp tục ra Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”… Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực: Nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn; các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của đời sống xã hội; nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy; văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, thiết thực; hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc; phát triển toàn diện con người Việt Nam từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây hại đến văn hóa, lối sống con người được chú trọng[14].

Tuy nhiên, lĩnh vực văn hóa, lối sống cũng còn tồn tại những biểu hiện của sự trì trệ, thụ động, chưa đổi mới, bứt phá để phù hợp với xã hội hiện đại, nhất là những biểu hiện phai nhạt về lý tưởng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quay lưng lại với những giá trị truyền thống của dân tộc, của cách mạng, chạy theo lối sống thực dụng của một bộ phận cư dân. Nguyên nhân là do văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước; vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần; môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa còn nhiều lúng túng, chậm trễ trong việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa[15].

Để khắc phục những hạn chế, chấn hưng, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế, chính trị, cần tập trung thực hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả một số giải pháp:

Một là, bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, tạo nên sự phát triển đồng bộ

Cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 và Kết luận số 76-KL/TW ngày 4/6/2020, trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần làm tốt vai trò tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền để văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị; văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[16]. Văn hóa được đặt trong chiến lược phát triển tổng thể của đất nước, quan điểm đó phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá.

Về kinh tế, cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm tận dụng tốt cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước. Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện văn hoá kinh tế, văn hóa chính trị, văn hoá đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3 trụ cột, tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế nhằm phát huy vai trò của trụ cột văn hóa gắn liền với trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội theo hướng phát triển bền vững. Bảo đảm “giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”[17].

Hai là, xây dựng và thực hiện các chuẩn mưc văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Để văn hóa làm tròn sứ mệnhsoi đường cho quốc dân đi” và thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cần “Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng; Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh”[18].

Coi trọng xây dựng và làm lan tỏa các giá trị văn hóa cả trong chính trị và kinh tế, nhất là trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư để văn hóa thực sự thấm sâu, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển bền vững. Đặc biệt cần đề cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, công chức và đảng viên ở các cơ quan, đơn vị trong ứng xử, giao tiếp và giải quyết các mối quan hệ bằng các giá trị văn hóa, cả trong nhận thức và hành động, từ lời nói đến việc làm, đây là nội dung rất cơ bản để xây dựng văn hóa trong chính trị, qua đó thúc đẩy việc xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Làm cho văn hóa gắn kết và thấm sâu vào nhận thức, thái độ, hành vi trong quan hệ và hoạt động hằng ngày của các tổ chức, lực lượng và nhân dân; đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Cần có cơ chế khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức tận tụy phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; Đồng thời cần kiên quyết phê phán, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức, viên chức thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu dân…

Ba là, đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt kịp với sự phát triển của thời đại.

Văn hóa là căn cước của một dân tộc, bao gồm hai hợp phần là nội sinh và tiếp biến từ bên ngoài. Trong quá trình mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hoá, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hoá Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, bắt kịp với sự phát triển của thời đại. Cần có sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống  giá trị hiện đại; vừa kế thừa những giá trị, chuẩn mực, cốt cách tốt đẹp của con người Việt Nam truyền thống, vừa có sự bổ sung phù hợp thực tiễn đất nước và sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại. Coi trọng bồi đắp con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại, có nhân cách tốt, lối sống đẹp. Quá trình giáo dục con người cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội, đặc biệt quan tâm đến phát huy giá trị văn hóa gia đình để bồi đắp con người những giá trị, chuẩn mực văn hóa, đạo đức tốt đẹp.

“Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội”[19]; Coi trọng giáo dục “lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội... để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ”[20]; Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.

Bốn là, phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.

Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là đường lối chiến lược đúng đắn, là nguồn sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản săc dân tộc hiện nay, vừa phải phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hoá các dân tộc anh em, làm phong phú nền văn hoá chung của cả nước; vừa phải kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hoá để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

“Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[21]. Coi trọng phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người không ngừng được bổ sung, phát triển, thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.

Cần “Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện hưởng thụ văn hóa của nhân dân”[22]. Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; chú trọng phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, thực sự là định hướng giá trị để “Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy mạnh mẽ khát vọng phát triển của dân tộc, tinh thần yêu nước, tự hào, ý chí tự cường và lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội; xây dựng môi trường và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, hội nhập quốc tế”[23].

Năm là, tăng cường nguồn lực, chủ động có kế hoạch, chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho văn hoá nước nhà phát triển đúng hướng và vững chắc trong thời kỳ mới.

Để văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực văn hoá của cộng đồng, định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục đích nhân văn và là cột mốc vững chắc nhất trong tâm trí mỗi con người, Đảng và Nhà nước quan tâm, hỗ trợ và xây dựng một chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới; hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa. Trong đó, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa theo hướng tinh gọn, tinh thông, hiệu lực, hiệu quả; phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa ở Trung ương và địa phương, đề cao vai trò, vị trí, nhiệm vụ của cấp cơ sở; phát triển nguồn nhân lực ngành văn hóa, văn nghệ, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý, lĩnh vực then chốt, đặc thù; xây dựng văn hóa trong chính trị, trong kinh tế, đặc biệt là văn hóa trong Đảng trở thành tấm gương đạo đức cho xã hội, văn hóa doanh nghiệp trở thành hệ điều tiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội…

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với các lĩnh vực kinh tế và chính trị đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam định hướng đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tư tưởng ấy không chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực hoạch định chiến lược phát triển văn hoá của Đảng, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong chỉ đạo các hoạt động văn hoá cụ thể trên các lĩnh vực khác nhau. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần nghiên cứu sâu sắc toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là những tư tưởng của Người về văn hoá, về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với các lĩnh vực kinh tế và chính trị, từ đó vận dụng sáng tạo trong thực tiễn xây dựng và phát triển văn hoá, đề ra đường lối, chính sách xây dựng và phát triển văn hoá một cách đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả.

 

Tài tiệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I.

2. Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981.

3. Hồ Chí Minh, Về văn hoá, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội 1997.

4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3.

5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 6.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 8.

7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 6.

8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10.

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 8.

10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 9.

11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 11.

 



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, tr. 431.

[2] Hồ Chí Minh, Văn hoá nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội 1981, tr. 345.

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr. 59.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 6, tr. 369.

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr. 59.

[6] Hồ Chí Minh, Về văn hoá, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội 1997, tr. 320.

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 8, tr. 281- 282.

[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 10, tr. 660.

[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 8, tr. 85.

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 9, tr. 405.

[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tập 11, tr. 267.

[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 1995, Tập 3, tr. 431.

[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2000, Tập 6, tr 173.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 64-65.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 84.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 110.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 202.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 144.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 143.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 168.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 116.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 114.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2021, tập I, tr. 221 – 222.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét