Thứ Ba, 24 tháng 12, 2024

Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao đất nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước.

 Quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội XIII của Đảng, thời gian qua, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân phát huy hiệu quả vai trò trụ cột, cũng như tăng cường sự phối hợp, bổ trợ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, ngoại giao. Đây là kết quả tích cực góp phần tiếp tục phát triển nền ngoại giao thời đại mới, tạo tiền đề vững chắc đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Góp phần xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”(1) nhằm phục vụ, đáp ứng những yêu cầu trong thời kỳ mới. Trong đó, nội hàm “toàn diện” được thể hiện qua sự bao trùm về nhiệm vụ, chủ thể thực hiện, lĩnh vực, phạm vi, cũng như công cụ đối ngoại, phương thức triển khai...

Toàn diện về nhiệm vụ đối ngoại thể hiện ở chỗ nhiệm vụ đối ngoại qua các kỳ đại hội đảng luôn được bổ sung các thành tố để triển khai nhiệm vụ “xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Các thành tố này phù hợp với bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước, như giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đại hội VI, VII, VIII, IX và X); bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ (Đại hội XI); nâng cao vị thế của đất nước (Đại hội XII); góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới (Đại hội XI, XII, XIII). Đáng chú ý, tại Đại hội XIII của Đảng, tính toàn diện về nhiệm vụ được thể hiện rõ khi gắn và đặt “lợi ích quốc gia - dân tộc” là kim chỉ nam trong đối ngoại.

Bên cạnh đó, tính toàn diện của nhiệm vụ đối ngoại còn được phát triển qua các kỳ đại hội đảng với các thành tố về “thêm bạn, bớt thù” (Nghị quyết số 13, năm 1988), “làm bạn” (Đại hội VII), “là bạn” (Đại hội IX), “đối tác tin cậy” (Đại hội IX), “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” (Đại hội XII). Việc chuyển tư duy theo hướng “chủ động và tích cực” khi nhấn mạnh việc “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, tham gia các thiết chế đa phương, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên hợp quốc.

Toàn diện về chủ thể thực hiện hoạt động đối ngoại  sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân vào hoạt động đối ngoại. Trong đó, chú trọng đến sự phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau giữa ba trụ cột của nền ngoại giao, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước.

Toàn diện về lĩnh vực là các hoạt động đối ngoại được triển khai trên tất cả lĩnh vực, với bốn trọng tâm là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và công tác người Việt Nam ở nước ngoài, trên cả bình diện song phương và đa phương.

Toàn diện về đối tác và phạm vi là việc bảo đảm triển khai các hoạt động đối ngoại với tất cả đối tác trên các địa bàn, từ tiểu vùng, khu vực, liên khu vực đến toàn cầu; không chỉ chú trọng hướng tới các quốc gia, mà còn hướng tới địa phương, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, người dân nước ngoài, cũng như thiết chế đa phương quốc tế. Trong đó, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, cũng như các thể chế đa phương mà Việt Nam có lợi ích chiến lược(2).

Toàn diện về công cụ và phương thức triển khai là sự tổng hợp hài hòa, phong phú của các công cụ ngoại giao, ở tất cả các cấp, các kênh, các phương thức, như công cụ kinh tế, chính trị, luật pháp quốc tế, thông tin đối ngoại, ngoại giao văn hóa...(3).

Với nội hàm “hiện đại”, tư duy cải tiến và thích ứng của nền ngoại giao Việt Nam trong bối cảnh và tình hình mới đã được làm nổi bật. Trong đó, về tính chất, nền ngoại giao Việt Nam có sự kết hợp hài hòa truyền thống, bản sắc ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ và các tinh hoa ngoại giao, tri thức nhân loại từ trước đến nay(4). Ngoài ra, nền ngoại giao Việt Nam hiện đại thực hiện mục tiêu hội nhập quốc tế sâu rộng, có đủ khả năng đóng góp để cùng giải quyết các vấn đề toàn cầu, trở thành một bộ phận hữu cơ của ngoại giao thế giới.

Phương thức vận hành của ngoại giao “hiện đại” thể hiện ở phương pháp, cách thức triển khai, nhấn mạnh tính thích ứng, chú trọng việc chuẩn hóa quy trình, hạ tầng hiện đại, đồng bộ, sử dụng nhân lực có trình độ, phong cách làm việc chuyên nghiệp, bộ máy tinh gọn.

Như vậy, có thể thấy, với chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng, trong bối cảnh quan hệ quốc tế đa dạng, phong phú, đa lĩnh vực hiện nay, một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại hơn bao giờ hết cần sự tham gia của cả hệ thống chính trị, nhất là trên cả ba trụ cột của nền ngoại giao: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân để phát huy tối đa “thế và lực” của đất nước. Đây là sự kế thừa, phát huy truyền thống và bài học quý báu của đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” thời đại Hồ Chí Minh(5). Do vậy, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân ngày càng khẳng định tính trụ cột, thể hiện vai trò, sứ mệnh riêng, có ý nghĩa quan trọng trong một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.

Trên thực tiễn triển khai, với đặc điểm hệ thống chính trị của Việt Nam, đối ngoại đảng đảm nhận vai trò lãnh đạo chủ chốt việc xây dựng đường lối, chiến lược đối ngoại, nhất là trong các vấn đề quan trọng và lâu dài. Ngoại giao nhà nước đóng vai trò nòng cốt trong thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng đối với quan hệ giữa nhà nước với nhà nước, giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ và giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế. Đối ngoại nhân dân là kênh đối ngoại cấp cơ sở, hậu thuẫn đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước thông qua thiết lập các hình thức trao đổi, đối thoại giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, phát huy “sức mạnh mềm” tạo nền tảng xã hội thuận lợi, góp phần thúc đẩy sự hiểu biết của bạn bè quốc tế về đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước, về đất nước, con người Việt Nam. Từ đó, tác động đến chính sách của các chính phủ nước ngoài nhằm phát triển quan hệ đối ngoại ở các cấp cao hơn.

Bên cạnh đó, trên cơ sở phục vụ mục tiêu cao nhất là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời với sự độc lập, tính đặc thù trong hoạt động, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân luôn có sự phối hợp một cách có tầng lớp, có hệ thống, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt là:

Trong quá trình triển khai nhiệm vụ đối ngoại của ngoại giao Việt Nam, luôn có sự tham gia đầy đủ của cả ba trụ cột của ngoại giao Việt Nam. Cả ba trụ cột đối ngoại phối hợp với nhau thực hiện các nhiệm vụ cơ bản, như “nghiên cứu, kiến nghị và triển khai đường lối, chính sách đối ngoại; tạo dựng và phát triển mối quan hệ hữu nghị, cùng có lợi với các đối tác; tổ chức thông tin đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, đấu tranh với âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”(6). Không chỉ vậy, sự không thể tách rời của ba trụ cột này còn được thể hiện qua các hoạt động đối ngoại; trong đó, đối ngoại đảng lãnh đạo, chỉ đạo tập trung toàn bộ hệ thống chính trị, còn ngoại giao nhà nước tổ chức thể chế hóa và quản lý hiệu quả.

Trong phương thức hợp tác, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, quán triệt quan điểm của Đảng về “đối tác”, “đối tượng”, thực hiện phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh, phù hợp với từng hoàn cảnh và đối tượng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, nâng cao cảnh giác, bảo vệ độc lập, chủ quyền, chính trị - an ninh quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc, các trụ cột đối ngoại Việt Nam phối hợp chặt chẽ triển khai các hoạt động hợp tác và đấu tranh một cách linh hoạt, hiệu quả. Đơn cử như, trong trường hợp kênh ngoại giao nhà nước gặp hạn chế, không giải quyết được điểm nghẽn trong quan hệ hợp tác, cần đến sự vào cuộc mạnh mẽ hơn của đối ngoại đảng, đối ngoại nhân dân. Bởi khi đó, đối ngoại nhân dân huy động được sự ủng hộ của người dân các nước liên quan, hay kênh đảng giúp khai thông điểm nghẽn mà ngoại giao nhà nước gặp phải, nhất là trong quan hệ đảng với các nước có cùng hệ thống chính trị. Như vậy, tùy vào đối tượng, hoàn cảnh và khả năng, ba trụ cột của nền ngoại giao sẽ có sự vận dụng khéo léo trong phối hợp triển khai hợp tác và đấu tranh “vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Trong đó, hợp tác là chủ yếu, đấu tranh là thứ yếu, tăng cường hợp tác để cùng phát triển và hướng tới lợi ích chung, chuyển hóa mặt khác biệt thành hợp tác, không để dẫn đến xung đột, đổ vỡ quan hệ trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích chính đáng của Việt Nam.

Thành quả đạt được trong phối hợp triển khai toàn diện nhiệm vụ đối ngoại của đất nước

Với sự “phân vai” và phối hợp nhịp nhàng kể trên, thời gian qua, cả ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân đã góp phần tạo nên sức mạnh “cộng hưởng” trong thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước. Cụ thể là:

Thứ nhất, trong bối cảnh thách thức ngày càng lớn do âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động thực hiện “diễn biến hòa bình” dưới nhiều hình thức, chiêu trò tinh vi, khó dự báo, nhất là trên không gian mạng nhằm gây mất ổn định chính trị##- xã hội của Việt Nam, hơn bao giờ hết, đối ngoại đảng đóng vai trò nòng cốt trong định hướng chiến lược, chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, tạo cơ sở thúc đẩy quan hệ chặt chẽ không chỉ với những nước có cùng ý thức hệ, mà còn với những nước có đảng cầm quyền, đảng tham chính có sức ảnh hưởng trên chính trường, có vai trò quyết định đến đường lối, chính sách đối ngoại của các nước. Đây là cơ sở vững chắc để tăng cường sự hiểu biết, tin cậy chính trị, tạo tiền đề thúc đẩy quan hệ song phương của Việt Nam với các nước đi vào chiều sâu, thực chất. Đồng thời, vừa thích ứng linh hoạt với những chuyển biến nhanh chóng, khó lường trên chính trường của các nước, vừa vận động sự ủng hộ của các đảng cầm quyền, đảng tham chính của các nước đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Thứ hai, quán triệt sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, ngoại giao nhà nước thể hiện vai trò tích cực và chủ động trong các vấn đề quốc tế. Tích cực thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, các nước đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện trên mọi lĩnh vực nhằm củng cố vị thế quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trước sự biến động chính trị, kinh tế của thế giới và khu vực bởi sự cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, các mối đe dọa từ an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống chưa có từng có, diễn biến phức tạp. Chủ động nắm bắt diễn biến tình hình thế giới, nhất là sự điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển của các nước. Qua đó, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, nỗ lực ngăn ngừa không để xảy ra xung đột, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ ba, với lợi thế đặc thù về khả năng tiếp cận được rộng rãi đối tác/đối tượng và triển khai linh hoạt hợp tác/đấu tranh phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, nhất là trong những điều kiện mà ngoại giao chính thức của Đảng và Nhà nước khó thực hiện được hoặc thực hiện ít hiệu quả, đối ngoại nhân dân có thể thiết lập và triển khai các kênh trực tiếp, hiệu quả với nhiều hoạt động trao đổi hợp tác phong phú (như hội hữu nghị, hợp tác kinh tế, trao đổi văn học - nghệ thuật, khoa học - giáo dục, thể thao...). Qua đó, vừa tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước, tạo nền tảng xã hội vững chắc, vừa bổ sung nội dung hợp tác, góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ đối ngoại của Việt Nam.

Trên cơ sở đó, ba trụ cột của nền ngoại giao đã có những đóng góp tích cực, tăng cường hiệu quả của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.

Một là, huy động nguồn lực trong nước phục vụ nhiệm vụ đối ngoại. Sức mạnh của đối ngoại Việt Nam được xây dựng trên khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở kết hợp hài hòa, thống nhất giữa các trụ cột, binh chủng, lực lượng tham gia công tác đối ngoại, để từ đó kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chính vì vậy, trong bối cảnh thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, với sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ của ba trụ cột đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, nền ngoại giao Việt Nam huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia nhằm ứng phó với thách thức, tận dụng cơ hội trong triển khai hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cùng tiến triển mạnh mẽ của nền ngoại giao thế giới, các thành tố trụ cột quan trọng của ngoại giao Việt Nam tiếp tục đổi mới, hiện đại hóa, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới sáng tạo và chủ động thích ứng với sự đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế và trong bối cảnh tương tác giữa các quốc gia ngày càng phát triển. Đây chính là sức mạnh nội sinh, là nguồn lực trong nước trên mọi phương diện, bảo đảm sự toàn diện, hiện đại của ngoại giao trong bối cảnh mới.

Hai là, góp phần tiếp tục thực hiện mục tiêu cao nhất của đối ngoại Việt Nam là phát huy vai trò tiên phong trong “tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định”, “huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”, “nâng cao vị thế, uy tín của đất nước”, đóng góp tích cực vào việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển chiến lược đến năm 2030 và năm 2045 của Việt Nam. Theo đó, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới, trong đó quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước(7), bao gồm tất cả thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn. Nền kinh tế Việt Nam đã vươn lên đứng trong tốp 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong tốp 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu(8).

Ba là, mỗi trụ cột đối ngoại đều kế thừa và phát huy bài học, kinh nghiệm quý báu, nghệ thuật “tập hợp lực lượng” độc đáo của đối ngoại cách mạng Việt Nam, đặc biệt là sự thích ứng linh hoạt, mềm dẻo, hài hòa của trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” trước xu hướng quan hệ quốc tế đa chủ thể, đa lĩnh vực, góp phần khẳng định một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, trở thành một bộ phận hữu cơ của ngoại giao thế giới.

Bốn là, sự phối hợp giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân phát huy vai trò hiệu quả của ngoại giao Việt Nam trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Đó là: 1- Tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình ổn định về chính trị, kinh tế, đối ngoại; bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia, bảo vệ đất nước trước những nguy cơ an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống; 2- Bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Năm là, tận dụng thế mạnh, đặc thù của từng kênh đối ngoại, phối hợp trong hợp tác/đấu tranh ngoại giao nhằm kiến tạo “điểm đồng”, xử lý bất đồng, bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam trước sự biến động khó lường của tình hình thế giới. Tùy từng đối tượng, trên từng vấn đề và ở từng thời điểm, trong hợp tác có đấu tranh nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, đấu tranh để mở rộng hợp tác phát triển, tránh dẫn đến đối đầu. Các phương thức, biện pháp hợp tác/đấu tranh linh hoạt, mềm dẻo, trong đó nội dung hợp tác có thể lồng ghép những khía cạnh đấu tranh, khi đấu tranh vẫn có thể tranh thủ cơ hội để hợp tác.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc kết hợp triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại thời gian qua, cũng như phát huy cao độ vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong nền ngoại giao Việt Nam vẫn còn một số hạn chế: 1- Nhận thức về tầm quan trọng và yêu cầu đặt ra đối với từng dạng thức đối ngoại trong công tác ngoại giao chưa thực sự đầy đủ, toàn diện; 2- Cơ chế thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại, ngoại giao chưa được tối ưu hóa; 3- Công tác thông tin đối ngoại còn chậm đổi mới; 4- Đội ngũ cán bộ ngoại giao cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa, toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức; hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách làm việc; chú trọng phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo...

Đóng góp củng cố, phát triển nền ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Từ nay đến năm 2030, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, trong đó một trật tự thế giới mới dần định hình với những dự báo khó đoán định. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, song cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt. Cùng với đó là tác động tiêu cực từ các thách thức an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, dịch bệnh,... đến các vấn đề an ninh truyền thống, như các “điểm nóng”, xung đột gia tăng tại nhiều khu vực trên thế giới. An ninh con người, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực,... tiếp tục là thách thức không chỉ ảnh hưởng đến an ninh của một quốc gia đơn lẻ, mà còn lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, bên cạnh nguy cơ, thách thức từ biến động của tình hình thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự tiến bộ nhanh chóng của thế giới đổi mới sáng tạo là cơ hội phát triển đối với mỗi quốc gia trong khát vọng vươn mình, định vị vị thế trên trường quốc tế.  

Đứng trước kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ công tác đối ngoại, ngoại giao cần chủ động, kịp thời phát hiện cơ hội, thách thức từ bối cảnh trong nước và thế giới nhằm đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; nâng tầm, mở rộng đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại, lan tỏa mạnh mẽ “phiên bản Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, hữu nghị, phát triển, phồn vinh, hạnh phúc”(9). Do vậy, trong thời gian tới, góp phần củng cố, phát triển nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, cần quan tâm thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”(10). Kiên quyết, kiên trì bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, phối hợp hiệu quả trong xây dựng nền ngoại giao thời đại mới, trong đó mục tiêu cao nhất là “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, vì Đảng vững mạnh, vì nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, có vị trí, vai trò quan trọng trong nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại, vì ấm no, hạnh phúc của Nhân dân”(11). Theo đó, tăng cường phối hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ ở cả phương diện ngoại giao song phương và đa phương, ở các lĩnh vực chính trị, kinh tế, luật pháp quốc tế, thông tin đối ngoại,... Đồng thời, tập trung vào các trọng tâm ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, ngoại giao môi trường, ngoại giao nhân quyền,... kết hợp chặt chẽ ba trụ cột đối ngoại với quốc phòng, an ninh.

Thứ ba, đối ngoại đảng cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo về tình hình và xu thế phát triển của các chính đảng trên thế giới trước những biến động của chính trường các nước và sự gia tăng các tư tưởng chính trị cực đoan trên phạm vi toàn cầu, nhằm đưa ra các định hướng, chính sách đối ngoại, ngoại giao phù hợp, kịp thời, linh hoạt để ứng phó hiệu quả với mọi tình huống, không để bất ngờ, bị động, bị cuốn vào “vòng xoáy” phân cực, tập hợp lực lượng các phong trào tư tưởng trên thế giới. Ngoài ra, tiếp tục phối hợp cùng ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân đóng góp tiếng nói để bạn bè quốc tế hiểu được cuộc đấu tranh tư tưởng chính nghĩa của Đảng ta trong việc chống các luận điệu xuyên tạc, hòng chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân của các thế lực thù địch, phản động.

Thứ tư, ngoại giao nhà nước cần đặc biệt quán triệt và vận dụng đúng đắn quan điểm về “đối tác”, “đối tượng” trong quan hệ quốc tế để hình thành thế trận ngoại giao vững chắc, bổ trợ đắc lực cho đối ngoại đảng và đối ngoại nhân dân. Trên hết, cần tiếp tục quan điểm xuyên suốt của đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, trong đó độc lập, tự chủ vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng của đối ngoại Việt Nam. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Bởi chỉ có độc lập, tự chủ, Việt Nam mới có thể hội nhập quốc tế thành công, phát huy đầy đủ “thế và lực”, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, xử lý được các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong môi trường thế giới đầy bất định, khó lường, đan xen nhiều cơ hội, thách thức.

Thứ năm, đối ngoại nhân dân cần chủ động hơn nữa, góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả trên cơ sở phối hợp hiệu quả cùng đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước. Sự tham gia các cơ chế, diễn đàn nhân dân đa phương khu vực và quốc tế cần tập trung vào các lực lượng nòng cốt.

Thứ sáu, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân cần chú trọng tăng cường phối hợp trong công tác nghiên cứu, dự báo để nắm bắt kịp thời, đúng, đủ, toàn diện, chính xác chiều hướng diễn biến của tình hình thế giới, khu vực; dự báo tác động thuận và không thuận đối với đất nước cả trong ngắn hạn và dài hạn nhằm phục vụ đắc lực nhiệm vụ tham mưu chiến lược cho Đảng và Nhà nước làm cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại.

Như vậy có thể thấy, trong suốt quá trình cách mạng của dân tộc, ngoại giao Việt Nam đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam đổi mới trên trường quốc tế. Những thành tựu này là sức mạnh tổng hợp từ sự kết hợp nhuần nhuyễn của cả hệ thống chính trị với các trụ cột của nền ngoại giao: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân. Thời gian tới, yêu cầu đặt ra đối với công tác đối ngoại, ngoại giao Việt Nam là mở rộng mạng lưới và tầng nấc các mối quan hệ ngoại giao nhằm củng cố vững vàng, nâng tầm vị thế quốc gia trong thế giới hiện đại. Chính vì vậy, tiếp nối truyến thống vẻ vang, các trụ cột của nền ngoại giao Việt Nam cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, tạo dựng cơ sở cho nền ngoại giao thời đại mới./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét