Có một câu chuyện khác không nhiều người biết trong sự kiện 14-3-1988. Đó là một tháng sau khi xảy ra cuộc đụng độ ấy, một biệt đội cảm tử gồm 35 chiến sĩ công binh và 7 người lính chiến đấu của hải quân nhân dân Việt Nam đã nhận được mật lệnh: lên đường ra Trường Sa, đổ bộ lên bãi Len Đao.
Trong một
đêm đầu tháng 3, hồi tưởng lại ký ức ông Đinh Xuân Toại, một trong 35 người
lính công binh hải quân ấy, rưng rưng nói: “Ra Trường Sa thời điểm đó rất nguy
hiểm. Nhưng không ai thoái thác nhiệm vụ. Khi nghe chỉ huy phổ biến xong nhiệm
vụ, chúng tôi đều xác định chấp nhận hy sinh để thực thi nhiệm vụ”.
Khi đó,
ông Toại là đại đội trưởng của đơn vị C7 – D3 (Lữ đoàn công binh E83).
Một buổi
chiều gần giữa tháng 4-1988, chỉ huy đơn vị C7 – D3 (Lữ đoàn công binh E83)
thông báo danh sách 35 người sẽ ra Trường Sa. 7g tối sẽ xuất phát. Thời gian chỉ
được thông báo trước gần 30 phút! Lương thực và đồ đạc quân tư trang cá nhân
đơn vị đã chuẩn bị đầy đủ. Sĩ quan, chiến sĩ chỉ việc lên tàu đi.
Đó là nhiệm
vụ mật. Chỉ những người trong đội cảm tử ấy và chỉ huy đơn vị mới được biết.
Ông Đinh Xuân Toại kể: “Thật ra tôi đã biết nhiệm vụ này ngay lúc còn ở Trường
Sa hồi tháng 3-1988. Ngày 14-3, khi Trung Quốc sát h.ạ.i anh em đồng đội tôi tại
Gạc Ma, ở bên này chúng tôi đang làm nhà ở đảo Tốc Tan.
Lúc đó ở
Len Đao, tàu HQ-605 đã bị bắn chìm. Len Đao bị nhiều tàu chiến Trung Quốc bao
vây. Trước tình thế cấp bách lúc đó, đúng ra phải làm nhà trong 2-3 tháng mới
xong nhưng chúng tôi được lệnh làm thật nhanh để quay về đất liền chuẩn bị vũ
khí, lực lượng ra giành lại Len Đao”.
Biệt đội
cảm tử này chỉ có 35 người lính công binh và 7 người lính chiến đấu. Vũ khí chỉ
có súng DKZ, B40, AK, lựu đạn mỏ vịt, mìn chống tăng…
Ông Toại
nhớ lại: “Trước khi đi, đơn vị tổ chức tuyên thệ. Toàn trẻ cả. Chỉ có anh Thống
và đại đội phó có vợ. Còn lại chưa có người yêu, chưa từng trải nhiều. Chúng
tôi nhận nhiệm vụ đổ bộ lên đó, khẩn cấp làm nhà chòi giữ đảo rồi sau đó làm
nhà sắt kiên cố”.
Ông Toại
kể tiếp: “Anh Thống đọc tuyên thệ. Rồi chúng tôi cũng tuyên thệ, hứa sống c.h.ế.t
có nhau và tuân theo mệnh lệnh cấp trên. Tư lệnh Vùng 4 năm đó đã hơn 60 tuổi,
một bên tay bị thương nên bị tật nhưng vẫn đi chỉ huy anh em. Hình ảnh đó của
thủ trưởng làm chúng tôi vững thêm tinh thần.
Chúng tôi
ra đi, xác định tư tưởng đi là sẵn sàng chết để giữ đảo, giống như những đồng đội
mình đã anh dũng hi sinh”.
Con tàu
thực thi nhiệm vụ này là con tàu không số của Lữ đoàn 125. Lên tàu, mọi người mới
hay mỗi người được phát một bao tử thi để chuẩn bị sẵn cho mình nếu hi sinh.
“Có bao
ghi tên, có bao không. Có người còn có thẻ bài bỏ trong balô. Lúc đó có chi mô
mà sợ. Có người còn đùa: mình chết còn có bao tử thi cột mang về. Đến giờ sinh
hoạt, chúng tôi vẫn vui vẻ bình thường, hát bài Vì nhân dân quên mình.
Tàu vừa
xuất phát, tư lệnh vùng và tiểu đoàn trưởng hướng dẫn chúng tôi sử dụng các loại
vũ khí và phương án tác chiến… Tập đi tập lại ra tới Trường Sa thì thuần thục”
– ông Toại kể.
Để đảm bảo
bí mật, con tàu lặng lẽ đi trong đêm tối giữa đại dương mênh mông. Không một
chút ánh sáng được phép le lói trên tàu. 2g sáng thì ra đến nơi.
“Trời tối
mịt. Biển cũng tối thẫm. Có nhìn thấy gì đâu. Nghe thông báo đến đảo rồi thì biết
đến đảo thôi. Sóng xô ra thấy chỗ nào có dải màu trắng trắng mờ mờ thì đó là
bãi cạn…” – ông Toại kể.
Anh em cứ
ba người một xuồng cao su bí mật bơi vào. Nhóm đầu tiên lên cắm cờ ở ba điểm: đầu
bãi, giữa bãi và cuối bãi cạn Len Đao. Các nhóm còn lại khẩn trương vận chuyển
vật liệu vào. Tất cả lính công binh vào hết. Chỉ có tư lệnh Vùng 4, đại đội trưởng
Đinh Xuân Toại (làm nhiệm vụ quản lý v.ũ k.h.í khí tài kiêm anh nuôi) và một
vài chiến sĩ liên lạc ở lại tàu.
Ông Hồ
Văn Hân – 53 tuổi, hiện đang sống ở Bố Trạch (Quảng Bình), là một trong những người
lính công binh hải quân xây đảo chìm Len Đao thời điểm đó – kể: “Mình làm nhà
chòi trước tiên để cho bộ đội giữ đảo. Nhà chòi lúc đó nhỏ lắm, chỉ khoảng
9-10m2.
Khổ nhất
là khâu chuyển vật liệu từ tàu xuống xuồng rồi đưa vào. Vật liệu đi làm nhà
trên đảo chìm thời đó đơn sơ lắm. Chỉ có ximăng, cát, sàn gỗ, cọc. Làm nhà, mà
làm trên đảo chìm lúc xung quanh tối đen, lại không được dùng đèn pin. Cứ 7-8
người làm một góc. Vừa mò mẫm vừa làm. Khi nước lên ngập bãi cạn, anh em phải lặn
xuống đóng cọc”.
Đến lúc
trời hửng sáng thì mặt biển lù lù bảy tàu chiến Trung Quốc! Con tàu không số bị
bảy tàu chiến Trung Quốc hung hăng bao vây.
“Lúc còn
tối nó không phát hiện, nên giờ bọn nó vây kẹp tàu mình. Một chiếc áp sát, nói
một tràng tiếng Trung. Phiên dịch của hải quân vùng đi cùng nói chi đó qua bên
nớ, đại ý khẳng định đây là địa phận, chủ quyền của Việt Nam.
Nói thật
lúc mới thấy tàu Trung Quốc nhiều vậy ai cũng căng thẳng lắm. Con người mà.
Nhưng khi tàu nó giáp gần, chẳng còn sợ nữa. Nó có bắ.n hay không kệ nó. Một là
sống. Hai là chết. Đồng đội mình đã hi sinh hết rồi đấy, nhưng Cô Lin vẫn giữ
được. Cho nên bằng mọi giá phải giữ được Len Đao.
Hai người
bạn thân nhất của tôi đều người Quảng Trạch, hi sinh chìm cùng với tàu HQ-604.
Anh em, bạn bè mình bị nó bắn như thế mà. Chả sợ nữa. Cứ cắm đầu làm cho thật
nhanh. Kệ chúng nó…” – ông Hồ Văn Hân kể.
Bao vây,
áp sát không uy hiếp được những người lính Việt Nam trên đảo chìm Len Đao, tàu
chiến Trung Quốc mở hết các bạt che vũ khí, chĩa súng, chĩa pháo về phía con
tàu vận tải Việt Nam và về phía những người lính đang ngụp lặn trên đảo chìm.
“Chỉ huy
nó ra huýt còi, lính tráng nó nhảy lên hết các vị trí súng, pháo, rồi đứng đầy
bên thành tàu, chờ hành động. Mình cũng sẵn sàng rồi, vì khi đi đã xác định sẽ
chiến đấu rồi. Nhưng nếu có nổ súng, chắc chắn mình sẽ chết hết. Họ toàn tàu
chiến, chạy nhanh, vũ khí hiện đại gấp mấy lần mình” – ông Đinh Xuân Toại cho
hay.
Uy hiếp từ
7g sáng đến 11g trưa vẫn không làm những người lính công binh Việt Nam hoảng sợ
và thoái lui, các tàu Trung Quốc tản ra và cứ lảng vảng gần đảo Len Đao. Trước
đó, ở Cam Ranh, những người lính công binh hải quân đã được huấn luyện xây nhà
chòi cấp tốc. Tập đi tập lại nhưng cũng phải mất 15 ngày mới làm xong. Vậy mà
ra đảo, chỉ bảy ngày đã xong.
Sau khi
đã làm xong nhà chòi, là “cột mốc” để khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại Len
Đao, 35 lính công binh lại khẩn trương làm nhà sắt kiên cố hơn.
Ở đảo chìm, một ngôi nhà kiên cố trung bình phải xây trong vài tháng. Nhưng với Len Đao trong thời điểm đó, họ phải làm nhanh hơn nữa. Chỉ trong mười mấy ngày đã xây xong ngôi nhà sắt./.
Ảnh tư liệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét