Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

NHẬN THỨC MỐI QUAN HỆ CỦA HAI NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

 Khi đất nước chưa thống nhất, nhiệm vụ và mục tiêu lớn nhất của cả dân tộc là giành độc lập dân tộc, dù có thể” đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nhưng khi đất nước chuyển sang giai đoạn mới, đòi hỏi phải xác định lại nội hàm, mục tiêu và mối quan hệ của hai nhiệm vụ cho phù hợp, đối với mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, Đại hội VII, trong Cương lĩnh 1991 xác định: “ Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”, sự phát triển nhận thức ở đây mở rộng cả phạm vi, đối tượng; bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nhiệm vụ của quốc phòng và cũng không chỉ là chủ quyền, lãnh thổ. Trật tự và tầm quan trọng của từng đối tượng bảo vệ cũng được sắp xếp lại, tuỳ theo từng thời kỳ, phụ thuộc vào đặc điểm trong nước và quốc tế. Đại hội IX, tại hội nghị Trung ương lần thứ tám, xác định rõ 6 nội dung là: 

1. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ;

2. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; 

3. Bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; 

4. Bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc; 

5. Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; 

6. Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điểm đặc biệt trong phát triển nhận thức của Đảng ta về giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn hai trong một, xây dựng đi đôi với bảo vệ, xây dựng cũng là bảo vệ và ngược lại. Lấy mục tiêu phát triển đất nước làm căn cứ để xây dựng nội hàm của cả hai nhiệm vụ.

Các kỳ đại hội Đảng X, XI và đặc biệt Đại hội XII, xác định:” Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này, là cơ sở để cụ thể hoá trong chủ trương, chính sách phát triển trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, sự kết hợp này mới chỉ xác định: kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và ngược lại trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương; trong quy hoạch và phát triển kinh tế vùng, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng- an ninh. Tiếp đó, bổ sung lĩnh vực an ninh và xã hội, đó là kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, xây dựng cơ chế phù hợp để thực hiện sự kết hợp này, sau đó là kết hợp kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, và: “Phát triển kinh tế- xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng- an ninh, quốc phòng- an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế- xã hội và trên từng địa bàn.

Sự gắn kết chặt chẽ mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong nhận thức và thực hiện càng mở rộng, đi vào chiều sâu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn kết trong tổng thể phát triển của đất nước và quan hệ của Việt Nam với bên ngoài. Đại hội XII phát triển thêm sự gắn kết yếu tố văn hoá: kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội. Quá trình nước ta ra khỏi bao vây, cấm vận, từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới và tác động của hội nhập quốc tế ngày càng lớn, cả tích cực và tiêu cực đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đồng thời, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong phát triển đất nước, đòi hỏi phải giải quyết hai nhiệm vụ này gắn kết với hoạt động đối ngoại. Việc phân loại đối tác, đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một bước tiến lớn về nhận thức, xác định lợi ích của đất nước trong xử lý mối quan hệ này. Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Trải qua quá trình gần 35 năm đổi mới, trong điều kiện đất nước có hoà bình, tập trung sức xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nguy cơ xâm lược, đe doạ đến độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ vẫn còn tiềm ẩn, nhất là vấn đề Biển Đông, biên giới đất liền, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch cùng với âm mưu kích động bạo loạn, lật đổ từ bên ngoài. Điều này càng cho thấy, tầm quan trọng của việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII, khi xác định quan điểm mới đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế- xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.

Việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là quá trình tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển lý luận, hình thành hệ thống quan điểm đồng bộ, có bước đi, hình thức phù hợp và được thể chế hoá trong từng chủ trương, chính sách qua các giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, đem lại thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử ngày hôm nay, là tiền đề cơ bản để thực hiện mục tiêu trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và trở thành nước đang phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét