Khai thác giá trị văn
hóa, để văn hóa trở thành nguồn lực cho sự phát triển đất nước là chủ trương
xuyên suốt của Đảng qua nhiều kỳ đại hội. Trong Hội nghị văn hóa toàn quốc năm
2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh yêu cầu: “xây dựng môi trường văn
hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa
thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa,
xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh”.
Như vậy, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) được
xem như một khâu đột phá trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam, giúp
chúng ta phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam nhằm thực hiện
khát vọng phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, để văn hóa thực sự là nền
tảng tinh thần, soi đường cho quốc dân đi trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong hai thập niên gần đây, Chính phủ đã ban hành, sửa đổi, bổ
sung nhiều luật nhằm tạo dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển
các ngành CNVH như: Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hóa, Luật quảng cáo, Luật
Xuất bản, Luật Du lịch, Luật Sở hữu trí tuệ... Những năm qua, CNVH bao gồm các
lĩnh vực sử dụng tài năng sáng tạo, tiềm năng văn hóa kết hợp với công nghệ và
kỹ năng kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đã và đang trở
thành động lực cho sự phát triển kinh tế đất nước.
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, nguồn lực cho phát triển
các ngành CNVH rất đa dạng và phong phú. Tài năng của người Việt Nam được khẳng
định ở nhiều lĩnh vực, từ thiên tài quân sự, nhà khoa học lớn đến các nghệ sĩ
tài năng trong văn học, hội họa, âm nhạc, điện ảnh, múa, thời trang, kiến
trúc... Việt Nam xếp thứ 48/131 quốc gia và nền kinh tế về Chỉ số Đổi mới sáng
tạo toàn cầu năm 2022. 150 trung tâm, không gian sáng tạo ở Việt Nam mang tính
đột phá trên toàn cầu.
Đối với tiềm năng văn hóa, 54 dân tộc anh em cùng lịch sử hàng
ngàn năm đã tạo ta một kho tàng vô giá về các di tích, nghi lễ, lễ hội, hình
tượng anh hùng, văn hóa dân gian, thủ công truyền thống, ẩm thực... là nguồn
lực vô cùng quý, hiếm có, vô tận để phát triển CNVH. Trong đó, 3.447 di tích
quốc gia đã được xếp hạng, 151 di tích danh lam thắng cảnh, hàng nghìn di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể (14 di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại) tạo nền tảng kinh tế, kỹ thuật, tinh thần cho phát triển CNVH và tôn vinh
văn hoá dân tộc.
Mặc dù, đóng góp gần 4% GDP nhưng các ngành CNVH vẫn chưa được
khai thác hiệu quả, xứng tầm với lợi thế của bề dày văn hóa dân tộc, tài năng
của con người Việt Nam.
“Điểm nghẽn” đầu tiên chính là nhận thức về CNVH chưa đầy đủ.
Văn hóa nghệ thuật vẫn chưa khẳng định giá trị hàng hóa trong nền kinh tế thị
trường. Thậm chí, một số ngành, địa phương chưa xác định đầu tư vào văn hóa là
đầu tư phát triển bền vững. Các ngành CNVH Việt Nam chưa thể cất cánh khi thiếu
các chính sách hỗ trợ phát triển, bởi không có đầu mối đủ mạnh để định hướng sự
phát triển và phối hợp giữa các ngành.
Để khắc phục những tồn tại trên, các chuyên gia cho rằng, song
song với hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ và các bộ, ngành cần tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách phát triển CNVH với tư cách là sự hội tụ đa ngành,
đồng thời tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, giữ vai trò “bà đỡ” để giải phóng
sức sáng tạo, thúc đẩy lực lượng sản xuất văn hóa.
Thiết nghĩ, phát triển các ngành CNVH sẽ giúp chúng ta tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Sự dồi dào của hàng hóa, dịch vụ văn hóa Việt Nam chính là sức mạnh mềm quan trọng của quốc gia, mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới, đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế sáng tạo, thịnh vượng, tự tin và độc đáo./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét