Thơ ca giải phóng miền
Nam, một hình thái đặc thù
của thơ ca giai đoạn
1945-1975
Trong bức tranh toàn cảnh thơ ca giai đoạn 1945-1975, không thể không kể đến thơ ca giải phóng miền Nam, một bộ phận thơ ở tuyến đầu chống Mỹ - ngụy, với một đội ngũ nhà thơ triệt để và đầy bản lĩnh trong quan niệm nghệ thuật: lấy thơ ca làm vũ khí chiến đấu (Thơ là súng là gươm - Lê Anh Xuân). Có thể nói, đây là quan niệm chung chi phối cảm hứng và tư thế diễn ngôn của văn nghệ sĩ trong văn học giai đoạn chiến tranh và cách mạng.
Nhưng với đội ngũ các cây bút văn nghệ giải
phóng nói chung và thơ ca nói riêng, nhiệm vụ này mang đặc thù riêng, bởi họ
không chỉ là thi sĩ mà còn là chiến sĩ, trong họ có sự phối trộn hài hòa tư
cách, phẩm chất nghệ sĩ và công dân. Nếu ở các địa bàn khác, những người viết
trước hết là chiến sĩ như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh… thì ở địa bàn
này, những người viết là những người cầm bút chuyên nghiệp, được trên giao
trọng trách trở về miền Nam với sứ mệnh lịch sử đặc biệt: xây dựng và phát triển
văn học miền Nam, trong tư thế đối đầu, đối mặt với kẻ thù, phản ánh và thể
hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, những tấm gương điển hình trong khí thế
đi đầu diệt Mỹ, tố cáo tội ác trời không dung, đất không tha của bè lũ Mỹ -
ngụy.
Trong giai đoạn 1954-1975, văn học chính thống
ở miền Nam là văn học đô thị, tồn tại nhiều khuynh hướng, trong đó có khuynh
hướng yêu nước và tiến bộ. Trong khuynh hướng này đã xuất hiện những tác giả
thơ nổi tiếng như Trần Quang Long, Ngô Kha, Trần Vàng Sao, Võ Quê… với những
dòng thơ cùng chung một “dòng máu anh hùng”, dùng vũ khí thơ ca để tranh đấu,
như song hành cùng thơ ca giải phóng:
Con
sẽ vót nhọn thơ thành chông
Xuyên vào gan lũ giặc
Con sẽ mài thơ như kiếm sắc
Chặt đầu văn nghệ tay sai
Trả thù cho cha, rửa hờn cho nước
Cho con ngửng đầu nhìn thẳng tương lai
Nếu thơ con bất lực
Con xin nguyện trọn đời
Dùng chính quả tim mình làm trái phá
Sống chết một lần
thôi
(Thưa mẹ trái tim - Trần Quang Long)
Thơ ca giải phóng ra đời năm 1961, năm thành
lập Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam, nhưng mầm mống của nó đã có khi đất nước
tạm chia làm hai miền. Từ trong đêm đen của chế độ Mỹ - ngụy đã xuất hiện những
tác giả lấy thơ ca thể hiện khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước như Viễn
Phương, Giang Nam, Thanh Hải, Chim Trắng… Bên cạnh những tên tuổi từ trong lòng
cuộc chiến là các nhà thơ miền Bắc, trong đó có những cây bút tập kết năm 1954,
đã trở về miền Nam theo tiếng gọi của quê hương.
Những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX và
liên tục trong thời gian tiếp theo, hàng loạt nhà văn, nhà thơ tràn đầy nhiệt
tình, tâm huyết và năng lực đã từ giã hậu phương miền Bắc lên đường, vượt
Trường Sơn vào Nam, góp phần tăng cường lực lượng sáng tác trong đội ngũ các nhà
thơ giải phóng: Thu bồn, Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến), Dương Hương Ly (Bùi Minh
Quốc), Vũ Ngàn Chi (Phạm Ngọc Cảnh), Nguyễn Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoài Vũ, Diệp
Minh Tuyền, Nguyễn Khắc Phục, Ngô Thế Oanh, Vũ Ân Thi, Dương Trọng Dật, Lê
Quang Trang, Trần Ninh Hồ, Trần Thị Thắng, Hà Phương, Khuynh Diệp… Đó là những
cây bút từ miền Bắc chi viện cho văn học giải phóng miền Nam.
Đội ngũ những nhà thơ giải phóng khi đã đặt
chân sang bên này vĩ thuyết 17 đã tự nguyện “sống và viết ở chiến trường”, là
những “kiểu người viết” biết cách sống và ứng xử sao cho xứng đáng với nhân dân
và đất nước trong những thử thách cao nhất của lịch sử, của thời đại. Các sáng
tác của họ là những minh chứng thuyết phục nhất cho sự gắn bó máu thịt với đời
sống của nhân dân, với cuộc chiến đấu quyết liệt và anh dũng của dân tộc, cho
sự hòa quyện, không tách rời giữa ý thức công dân và nghệ sĩ. Họ đã thổi vào
thơ ca những cảm xúc nóng hổi, diễn tả và thể hiện một cách thời sự, cập nhật
đời sống và con người trong những tình huống và hoàn cảnh thắt ngặt của chiến
tranh. Hàng loạt sáng tác, tập thơ thời chiến của các cây bút thơ giải phóng ra
đời đã mang cái nhìn, cái cảm, cái nghĩ của những người chứng kiến và nếm
trải: Những đồng chí trung kiên (1962), Huế mùa xuân (1970)
- Thanh Hải; Bài ca chim Chơ Rao (1964), Tre
xanh (1970), Mặt đất không quên (1972) - Thu
Bồn; Trường ca Nguyễn Văn Trỗi (1968), Hoa dừa (1971)
- Lê Anh Xuân); Quê hương (1962), Người anh hùng Đồng Tháp (1965), Vầng
sáng phía chân trời (1969) - Giang Nam; Mắt sáng học trò (1970)
- Viễn Phương; Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ (1971) - Dương
Hương Ly; Đất ngoại ô (1973), Mặt đường khát vọng (1974)
- Nguyễn Khoa Điềm; Đêm Quảng Trị (1972) - Vũ Ngàn Chi…
Thơ của các cây bút thơ cách mạng miền Nam là
thơ của một đội ngũ gồm nhiều thế hệ thấm nhuần tinh thần và ý chí cộng đồng
“không gì quý hơn độc lập tự do”. Một đội ngũ những người đã chứng kiến bao
biến động của lịch sử dân tộc, bằng các sáng tác thi ca của mình đã góp phần
lưu giữ ký ức của đất nước, của con người một thời đạn lửa. Nổi bật ở đây là
tình cảm cuộn dâng mà nghẹn ngào của những đứa con được trở về đất mẹ - quê
hương. Nếu không sinh ra trên mảnh đất Quảng Nam, không chứng kiến những đau
thương mất mát của quê nhà trong quá khứ, Thu Bồn làm sao viết được những dòng
thơ thấm đẫm niềm vui trở về cùng niềm đau trải nghiệm:
Tôi cúi xuống hôn mảnh đất quê hương
Như hôn người yêu sau ngày xa cách
Tôi không khóc nhưng vẫn trào nước mắt
Con đã về đây với mẹ - quê hương…
Đất hỡi
đất người vẹn lòng yêu nước
Viên đạn bây giờ cày lên viên đạn năm xưa
Chiếc áo màu xanh dù rách nát
Vẫn hiền hòa đùm bọc mẹ sớm trưa
Tuy không sinh ra trên đất Quảng nhưng Dương
Hương Ly (Bùi Minh Quốc) đã tình nguyện sống và viết trên một “vùng trung tâm
của cơn lốc mà trải biết về nhân dân và chính mình”. Không phải ngẫu nhiên nhà
thơ đã định danh cho mảnh đất Quảng Nam là “mảnh đất nuôi ta thành dũng
sĩ”: Tôi trở về đất mẹ Quảng Nam tôi/ Dẫu chẳng nơi đây cất tiếng chào
đời/ Đất Tổ quốc đâu cũng là đất mẹ/ Ôi Tổ quốc mối tình kỳ lạ thế/ Càng trong
lửa đạn lại càng tươi. Trong thơ Lê Anh Xuân, mạch nguồn quê
hương được khơi gợi từ tập thơ đầu tay trên đất Bắc Tiếng gà gáy càng
cuộn xiết, mãnh liệt hơn trên chặng đường trở về Bến Tre “quê nội”. Thơ Lê Anh
Xuân là thơ của người nhập cuộc và hành động hết mình. Đó là cuộc dấn thân mong
đi tới sự hòa nhập giữa chủ thể trữ tình và khách thể thẩm mỹ: Ôi quê
hương xanh biếc bóng dừa/ Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại/ Quê
hương ta tất cả vẫn còn đây/ Dù người thân đã ngã xuống đất này.
Nhập cuộc và hành động, trước hết với Lê Anh Xuân là xác quyết một lẽ
sống: Ta cầm nắm đất cha ông/ Nghe thiêng liêng ngọn lửa
hồng trong tay. Với Nguyễn Khoa Điềm, tình yêu quê hương, ngày trở về quê
hương chiến đấu đã kết nối con người trong vòng tay bè bạn, cùng một chí hướng,
một đích đến: Bỗng thấy thương nhau hơn khi vai bạn sát vai mình/ Bẻ củ
sắn chia đôi điều giản dị/ Bếp lửa soi một dư vang bền bỉ/ Ôi Trường Sơn đốt
lửa mấy năm rồi. Tình yêu quê hương - quê hương trong tranh đấu kết
tinh thành biểu tượng người mẹ: Đất quê ta mênh mông/ Quân thù không săm
hết được/ lòng mẹ rộng vô cùng/ Đủ giấu cả hang sư đoàn dưới đất/ Nơi hầm tối
là nơi sáng nhất/ Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam (Dương Hương Ly)…
Trong tư duy sáng tạo của mình, các nhà thơ
giải phóng đã đưa thơ xáp mặt với cuộc sống, đưa chất liệu thực vào cảm hứng và
cách diễn đạt của mình. Những chất liệu hiện thực nếu không phải là người trong
cuộc sẽ không dễ có những cảm xúc phả vào những trang thơ mà ngày nay đọc lại
vẫn không thôi nhắc nhớ về một thời với những “giai điệu tự hào”, đầy trữ tình
lãng mạn. Có thể nói, một trong những bài thơ được nhiều người thuộc nằm lòng,
được truyền từ thế hệ chống Mỹ đến thế hệ hậu chiến, mang ý nghĩa động viên,
vây ấm lòng người là Bài thơ hạnh phúc của Dương Hương Ly. Bài
thơ với lời đề tặng và tưởng nhớ người bạn đời là nữ nhà văn Dương Thị Xuân Quý
với bút danh Dương Thị Minh Hương, người đã gạt nước mắt gửi cô con gái bé bỏng
cho bà ngoại để đến với “Trường Sơn nghìn dặm” cùng chồng “nắm tay nhau đi vào
cuộc chiến đấu này” và đã hy sinh trên chiến trường Quảng Nam, ở cuối con sông
Thu Bồn: Anh mất em như mất nửa cuộc đời/ Nỗi đau anh không thể nói
bằng lời/ Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy/ Những viên đạn quân thù bắn em
trong lòng anh sâu xoáy. Ở đây, cảm xúc của chủ thể trữ tình vượt lên khuôn
khổ của một đề tài quen thuộc - nỗi đau mất người yêu, người bạn đời, người
đồng nghiệp, đồng đội để mở ra những bình diện khác, những chiều kích khác: vấn
đề hạnh phúc, lẽ sống, và hơn hết là lẽ sống của người cầm bút trong cuộc ra
trận lớn lao của dân tộc: Em nói đến tương lai tươi thắm ngọt lành/ Em
nói tới những điều em định viết/ Giữa hai cơn đau em ngồi ghi chép/ Con sông
Giành gầm réo miên man/ Nước lũ về trang giấy nhỏ mưa chan/ Em vẫn viết lòng
dạt dào cảm xúc/ Và em gọi đó là hạnh phúc. Cấu trúc bài thơ kết dính trên
một chỉnh thể liền mạch như những con sóng tràn bờ, nối tiếp, nâng đỡ nhau, cái
riêng nằm trong cái chung, tạo nên đường viền bối cảnh, làm nổi bật nhân cách
một con người - một nữ nhà văn chiến sĩ tiêu biểu trong văn học giai đoạn chống
Mỹ cứu nước hào hùng và bi tráng của dân tộc.
Có thể nói, văn học giải phóng nói chung và
thơ ca nói riêng là một bộ phận không tách rời, là “dòng riêng” giữa “nguồn
chung” văn học 1954-1975. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của các nhà thơ giải
phóng gắn với “huyền thoại” về sự dấn thân, nhập cuộc của một đội ngũ văn nghệ
sĩ cho cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do của dân tộc. Một đội ngũ gồm nhiều
thế hệ cầm bút đã tự nguyện điều tiết giữa cái tôi và và
cái ta, thậm chí vượt lên cái tôi của chính mình, lấy thơ ca làm vũ
khí phục vụ các nhiệm vụ chiến lược của non song, đất nước. Văn nghệ giải
phóng, trong đó có sự hiện diện của thơ ca, không chỉ có ý nghĩa về phương diện
chính trị, đóng góp công sức vào sự nghiệp cách mạng bằng việc phản ánh và thể
hiện cuộc sống và con người trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà
còn để lại một hình thái tồn tại và phát triển độc đáo, đặc thù, mang hiệu ứng
thẩm mỹ và nhân văn, đóng vai trò quan trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong
cộng đồng tiếp nhận không thể không ghi nhận trên tiến trình văn học dân tộc./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét