Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đã đáp ứng nguyện vọng bức thiết của lịch sử là: Cứu dân, cứu
nước khỏi vòng nô lệ của thực dân và ách áp bức của phong kiến; giải phóng dân
tộc, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”; đi lên chủ nghĩa xã hội, đem lại
ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục tiêu hiện
nay của Đảng là đấu tranh thống nhất nước nhà, để thực hiện một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; làm cho cả nước không còn
ai bị bóc lột, xây dựng một xã hội mới, trong đó mọi người được sung sướng, ấm
no”. Mục tiêu đó là đạo đức, là văn minh.
Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức lãnh đạo nhân dân ta chống lại ách thống trị của thực dân và
ách áp bức của phong kiến, đấu tranh đòi quyền lợi cho dân nghèo, làm cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, thực hiện quyền tự quyết, quyền độc lập, tự chủ của
dân tộc Việt Nam, đó là quyền bình đẳng tối thiểu của các dân tộc, các quốc gia
trên thế giới. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người viết: “Tất cả mọi người đều
sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được,
trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Chính vì thế, mà Người luôn quan tâm giải quyết quyền dân tộc cơ bảncủa
nhân dân Việt Nam một cách khoa học. Dưới ánh sáng của học thuyết Mác - Lênin,
trực tiếp là tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin, Hồ Chí Minh hiểu rằng, quyền tự do,
bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng, không ai được phép
xâm phạm; trong một đất nước, quyền lợi của mỗi cá nhân bao giờ cũng gắn liền với
quyền lợi của cả dân tộc, đất nước. Nước mất thì nhà tan, nước độc lập thì dân
tộc mới độc lập, con người mới được giải phóng và có tự do đích thực. Đó là một
trong những lý do để Người trở thành chiến sĩ cộng sản đấu tranh không mệt mỏi
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Đó là đạo đức, là văn minh.
Đảng Cộng sản
Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: là một Đảng chân chính cách mạng, Đảng trung
thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của toàn thể dân tộc và
nhân dân Việt Nam. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945, nhân dân ta
giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, với mục đích duy nhất là giữ vững độc lập,
tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc
sống mới ấm no, hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn nhắc nhở Chính phủ chăm lo mọi mặt cho đời sống nhân dân, với
tinh thần nhân dân chỉ cảm nhận được quyền của mình trong một nước độc lập khi
ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, mọi người được học hành. Người ước nguyện:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn
toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Với Người, giải phóng con người, trước hết là giải
phóng họ khỏi cái đói, cái rét, cái dốt để giải phóng dân tộc, chỉ có thoát khỏi
thân phận nô lệ, mỗi con người mới lấy lại được phẩm giá làm người; chỉ giải
phóng dân tộc mới góp phần giải phóng của toàn nhân loại. Chính vì thế, Người
đã thức tỉnh ý thức đạo đức dân tộc và nối liền với đạo đức thời đại mới - đưa
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thành một bộ phận của tinh thần quốc tế. Giá trị
văn hóa đạo đức đó đã xác lập chủ nghĩa yêu nước chân chính, tiếp biến với các
giá trị đạo đức tiến bộ của loài người, gạt bỏ các mặt đạo đức lạc hậu để phát
triển giá trị đạo đức mới. Giá trị đạo đức mới chi phối tư tưởng, ý thức đạo đức,
các quan hệ ứng xử, các hành vi đạo đức trong nhân dân. Từ giải quyết quyền con
người, quyền dân tộc cơ bản, Người đã xác lập các giá trị đạo đức một nền đạo đức
mới Việt Nam. Việc kết hợp các giá trị đạo đức dân tộc với các giá trị đạo đức
của thời đại đã tạo ra là nền tảng quan trọng của sự tiến bộ xã hội ở Việt Nam.
Đó là đạo đức, là văn minh.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn coi trọng xây dựng đạo đức của đội ngũ cán bộ. Người rất quan tâm
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ văn hóa, am hiểu pháp
luật, thành thạo nghiệp vụ và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm liêm chính, chí
công vô tư, tận tâm, tận lực, trung với nước, hiếu với dân suốt đời phục vụ Tổ
quốc, phụng sự nhân dân. Người cho rằng, đạo đức cách mạng sẽ tạo nội lực quan
trọng cho quá trình cách mạng, đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Đồng thời, Người
quan niệm đạo đức cách mạng của người cán bộ tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định
sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém”. Quan niệm ấy không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ
mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải
kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người cách mạng phải cần kiệm,
cẩn thận, nhẫn nại, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói phải làm. Chính vì lẽ
đó, Người rất quan tâm đến việc tu dưỡng đạo đức người cách mạng và cảnh báo
tình trạng cán bộ “dùng của công làm việc tư... Không sợ mất thanh danh của Đảng,
không sợ mất danh giá của mình”, quên cả thanh liêm đạo đức cần phải phê phán mạnh
mẽ và loại bỏ - những công việc đó là đạo đức, là văn minh của Đảng ta.
Như vậy, đạo đức
cách mạng của Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát đã trở thành chuẩn mực đạo
đức chung, nền tảng của Đảng và Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét